26 Vào đề
chục nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới, là cơ sở dữ liệu lớn nhất hiện có về tiến trình của
bất bình đẳng thu nhập. Cơ sở dữ liệu này tương ứng với tập hợp dữ liệu thứ nhất dùng trong
cuốn sách này
42
.
Nguồn tập hợp dữ liệu thứ hai, thực ra được tôi dùng trước tiên trong sách, là về tài sản,
sự phân bố và những mối liên hệ của nó với thu nhập. Tài sản cũng đóng vài trò quan trọng
trong tập hợp dữ liệu đầu tiên, thông qua thu nhập từ tài sản. Xin nhắc lại rằng thu nhập lúc
nào cũng gồm hai thành phần, một phần là thu nhập từ làm việc (tiền lương, tiền phụ cấp, tiền
thưởng, thu nhập từ làm việc không lương, v.v, và những thu nhập từ làm việc khác, bất kể dưới
hình thức pháp lí nào), phần khác là thu nhập từ vốn (tiền thuê tài sản, lợi nhuận trên vốn góp,
tiền lãi, giá trị thêm
43
, tiền phí, v.v, và những thu nhập đến từ sự sở hữu vốn đất đai, bất động
sản
44
, tài chính, công nghiệp, v.v, đây cũng vậy bất kể dưới hình thức pháp lí nào). Những số
liệu từ WTID chứa rất nhiều thông tin về tiến trình của thu nhập từ vốn trong thế kỉ 20. Tuy
nhiên cần phải bổ sung nguồn này bằng những số liệu về tài sản đơn thuần. Ta có thể phân biệt
ba tập con số liệu lịch sử và phương pháp tiếp cận, hoàn toàn bổ trợ lẫn nhau
45
.
Đầu tiên, cũng như khai báo thu nhập từ nguồn số liệu thuế thu nhập cho phép nghiên cứu
tiến trình của bất bình đẳng thu nhập, khai báo tài sản thừa kế từ nguồn số liệu thuế tài sản
thừa kế cho phép nghiên cứu tiến trình của bất bình đẳng tài sản
46
. Cách tiếp cận này đã được
Robert Lampman dùng lần đầu tiên năm 1962 khi nghiên cứu tiến trình của bất bình đẳng tài
sản tại Mĩ từ năm 1922 đến 1956, sau đó đến Anthony Atkinson và Alan Harrison năm 1978 khi
nghiên cứu trường hợp Liên hiệp Anh từ năm 1923 đến năm 1972
47
. Những công trình này gần
đây đã được cập nhật và mở rộng ra các nước khác, ví dụ như Pháp và Thụy Điển. Không may
42
Chúng tôi không thể bàn chi tiết về từng nước trong khuôn khổ cuốn sách này mà chỉ trình bày tổng
kết chung. Bạn đọc quan tâm có thể tham khảo dãy số liệu đầy đủ trên trang mạng của WTID (xem
http://topincomes.parisschoolofeconomics.eu) và trong những tập sách và bài báo kĩ thuật kể trên. Nhiều tài
liệu được trình bày trong phần phụ lục kĩ thuật của sách này: xem http://piketty.pse.ens.fr/capital21c.
43
người dịch. Nguyên bản: plus-value.
44
người dịch. Nguyên bản: immobilier. Piketty hiểu bất động sản là những công trình được xây dựng trên đất,
để phân biệt với đất đai thuần túy để chỉ đất đai còn trống không có công trình xây dựng nhưng có thể được
dùng vào mục đích khác, ví dụ sản xuất nông nghiệp.
45
WTID đang chuyển đổi thành “World Wealth and Income Database” (WWID) (người dịch. Tạm dịch: “Cơ sở
dữ liệu về của cải và thu nhập toàn cầu”). WWID bao gồm cả ba tập con số liệu bổ trợ nói trên. Trong sách này
ta sẽ trình bày những thành phần chính hiện có.
46
Ta cũng có thể dùng khai báo tài sản từ nguồn số liệu thuế hàng năm về tài sản của những người còn sống,
nhưng trong giai đoạn dài nguồn số liệu này ít hơn nguồn số liệu về tài sản thừa kế.
47
Xem những tập sách tiên phong sau: R.J.Lampman, The Share of Top Wealth-Holders in National Wealth,
1922-1956, Princeton University Press, 1962 (người dịch. Tạm dịch: Phần đóng góp của những người nhiều của cải
nhất trong tổng của cải quốc gia giai đoạn 1922-1956 ); A.B.Atkinson và A.J.Harrison, Distribution of Personal
Wealth in Britain, 1923-1972, Cambridge University Press, 1978 (người dịch. Tạm dịch: Phân bố của cải cá nhân
ở Anh giai đoạn 1923-1972).