Chương 7
Bất bình đẳng và tập trung thu
nhập: các mốc đầu tiên
Trong phần thứ hai của sách, ta đã nghiên cứu sự vận động của tỉ số vốn/thu nhập trên qui
toàn thể một nước, và sự phân chia tổng quan của thu nhập quốc gia thành thu nhập từ vốn và
thu nhập từ làm việc; chưa trực tiếp quan tâm tới bất bình đẳng thu nhập và sở hữu tài sản
trên qui thể. Ta đã ch yếu phân tích tầm quan trọng của các biến cố giai đoạn 1914-1945
để hiểu hơn các biến động của tỉ số vốn/thu nhập và của phân chia vốn-làm việc trong thế kỉ
20; và đã thấy rằng Châu Âu cũng như thế giới vừa mới thoát ra xong khỏi ảnh hưởng của các
biến cố đó. vậy nhiều người cảm giác rằng ch nghĩa vốn coi trọng tài sản - nở rộ vào
thời đầu thế kỉ 21 y - một sự việc hoàn toàn mới mẻ, trong khi thực ra đó phần nhiều
lịch sử lặp lại - đặc trưng của hội với tăng trưởng chậm, giống như hội thế kỉ 19.
Giờ ta hãy trình bày cụ thể trong phần thứ ba này nghiên cứu về bất bình đẳng và phân b
của cải trên qui thể. Trong các chương tiếp theo, ta sẽ thấy rằng các cuộc Chiến tranh thế
giới và các chính sách công cộng theo sau đã đóng vai trò trung tâm trong quá trình giảm thiểu
bất bình đẳng tại thế kỉ 20. Quá trình y không hề tự nhiên và tự phát, ngược lại với các dự
báo lạc quan của thuyết Kuznets. Ta cũng thấy rằng bất bình đẳng đang tăng lên rất mạnh
k từ những năm 1970-1980. Tuy vy vẫn nhiều khác biệt giữa các nước, điều một lần nữa
gợi nhắc rằng các thể chế và các chính sách đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình đó. Ta
279
280 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
cũng sẽ phân tích tiến trình của độ lớn tương đối giữa thừa kế và thu nhập từ làm việc trong giai
đoạn rất dài, dưới c nhìn vừa lịch sử vừa thuyết: niềm tin rộng rãi theo đó sự tăng trưởng
hiện đại một cách tự nhiên sẽ ưu đãi làm việc so với thừa kế, năng lực so với số phận - niềm tin
đó đến từ đâu, và liệu ta chắc đến vậy không? Cuối cùng, trong chương cuối của phần thứ
ba này, ta sẽ nghiên cứu triển vọng của tiến trình phân b tài sản trên phạm vi toàn cầu trong
các thập kỉ sắp tới: tương lai thế kỉ 21 liệu bất bình đẳng hơn cả thế kỉ 19 không, hay thậm
c điều đó đã xảy ra rồi? Cấu trúc bất bình đẳng trong thế giới ngày nay thật sự khác biệt so
với thời Cách mạng công nghiệp hay trong các hội nông thôn truyền thống điểm nào? Phần
thứ hai đã mang lại một số hiểu biết, nhưng chỉ phân tích cấu trúc bất bình đẳng trên qui
thể mới cho phép ta trả lời được câu hỏi chính yếu này.
Trước khi đi tiếp theo hướng nghiên cứu này, đầu tiên ta hãy làm quen với các khái niệm và
các số độ lớn trước. Ta ghi nhớ rằng bất bình đẳng thu nhập trong mọi hội đều thể được
phân tách thành ba số hạng: bất bình đẳng thu nhập từ làm việc; bất bình đẳng sở hữu vốn và
thu nhập từ vốn; và mối liên hệ giữa hai loại trên. Bài diễn thuyết lừng danh Vautrin dành
cho Rastignac trong Lão Goriot lẽ lời mở đầu ràng sáng sủa nhất cho ch đề này.
Bài diễn thuyết của Vautrin
Xuất bản năm 1835, Lão Goriot một trong các tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Balzac. Đó chắc
hẳn một phát biểu văn học ngọn ngành nhất về cấu trúc bất bình đẳng và vai trò trung tâm
của thừa kế và tài sản trong hội thế kỉ 19.
Động của Lão Goriot rất trong sáng. một cựu công nhân sợi, lão Goriot đã làm giàu
trong nghề bột nhào và buôn bán hạt trong giai đoạn Cách mạng Pháp và Napoléon. Góa vợ,
lão đã hi sinh tất cả để gả bằng được hai con gái, Delphine và Anastasie, vào hội thượng
lưu Paris những năm 1810-1820. Lão chỉ giữ lại vừa đủ tiền ăn trong một nhà trọ tồi tàn, nơi
ông gặp Eugène de Rastignac, quí tộc trẻ tuổi nhưng nhẵn túi từ tỉnh lên Paris học luật. Đầy
tham vọng, lại chết nghèo, Eugène âm mưu qua một người anh em họ xa thâm nhập vào các
salon sang trọng, nơi hay qua lại của giới cầm quyền, giới nhiều tài sản và tài chính cao cấp
thời Bourbon quay lại ngôi vua. Anh ta yêu ngay Delphine, đang bị chồng, nam trước Nucingen,
ruồng bỏ. Đó một tay tài phiệt lợi dụng chính của hồi môn của vợ mình trong rất nhiều phi
22l5.com 281
vụ đầu cơ. Rastignac hết luôn ảo tưởng khi khám phá ra sự liêm sỉ của một hội hoàn toàn
bị tiền lũng đoạn. Anh ta hãi hùng khám phá ra lão Goriot đã bị các con gái b rơi như thế nào;
các này quá xấu hổ v việc đó và không gặp ông mấy kể từ khi họ được gia tài của ông ra
sao; họ bận bịu bởi sự thành đạt của mình như thế nào. Lão đã chết trong sự đơn và khốn
khổ nhơ nhuốc. Rastignac một mình tới dự đám tang lão. Nhưng vừa bước chân ra khỏi nghĩa
trang Père-Lachaise, gục ngã trước cảnh giàu sang của Paris trải rộng phía xa dọc theo b sông
Seine, anh ta quyết định dấn thân vào cuộc chinh phục vốn: “Giờ chỉ còn hai ta!”. Khóa học về
tình người đã chấm dứt, kể từ nay hắn cũng không chỗ cho lòng thương cảm.
Thời khắc đen tối nhất trong tiểu thuyết, lúc các lựa chọn hội và đạo đức Rastignac
phải đối diện được diễn tả sáng và sống sượng nhất, chắc hẳn bài diễn thuyết Vautrin
dành cho hắn vào giữa truyện
1
. Cũng túc trong nhà trọ Vauquer sập sệ, Vautrin một người
y dạn, nói hay và cuốn hút. Vautrin cũng che đậy quá khứ tội nặng trĩu của mình, kiểu
như Edmond Dantès trong tước Monte-Cristo hay Jean Valjean trong Những người khốn khổ.
Nhưng ngược với hai nhân vật gộp hết tích cực nói trên, Vautrin rất xấu xa và liêm sỉ.
Hắn âm mưu lôi kéo Rastignac vào một vụ giết người để cuỗm một gia sản thừa kế. Trước việc
đó, hắn đã lên lớp Rastignac bằng một bài diễn thuyết cực chính xác và ghê rợn về những số
phận khác nhau, những cuộc đời khác nhau đang chờ đợi một người trẻ tuổi như anh ta trong
hội Pháp thời đó.
Nói gọn, Vautrin giải thích cho Rastignac rằng sự thành đạt qua đường học vấn, tài năng và
làm việc điều ảo tưởng. Hắn dựng lên cho anh ta một bức tranh nét về các đường sự nghiệp
nếu anh theo đuổi học vấn, dụ trong ngành luật hoặc thuốc, các lĩnh vực tinh túy nhất
theo nguyên tắc, năng lực nghề nghiệp - chứ không phải gia tài được thừa kế - sẽ ngự trị. Đặc
biệt, Vautrin nói rất cho Rastignac v mức thu nhập hàng năm anh ta thể hi vọng
nhận được. Kết luận không phải bàn: thậm chí nằm trong những người bằng luật tài
năng nhất Paris, thậm chí đạt được sự nghiệp sáng sủa nhất trong ngành luật, điều tất nhiên
sẽ đòi hỏi rất nhiều hi sinh, anh ta cũng phải tự hài lòng với mức thu nhập khiêm tốn, và từ b
ý định chạm đến sự giàu thực thụ:
Khoảng ba mươi tuổi, nếu anh chưa b cuộc, anh sẽ thành quan tòa với mức lương một
nghìn hai trăm franc một năm. Khi anh chạm ngưỡng bốn mươi tuổi, anh sẽ lấy nào đó con
1
Xem H.De Balzac, Lão Goriot, Le Livre de poche, 1983, trang 123-135.
282 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
gái của một ch xưởng xay bột lĩnh khoảng sáu nghìn livre tiền cho thuê đất hay tiền lãi. Cám
ơn. Nếu ô dù, anh sẽ thành công tố viên lúc ba mươi tuổi, lương một nghìn écu [năm nghìn
franc] một năm, và anh sẽ lấy con gái thị trưởng. Nếu anh dám làm vài thủ đoạn chính trị đê
hèn, anh sẽ thành công tố trưởng lúc bốn mươi tuổi. [...] Tôi rất hân hạnh nhắc anh thêm rằng
cả nước Pháp chỉ hai mươi kiểm sát trưởng thôi, và hai mươi nghìn người như anh đang
thèm khát chức vụ này, trong đó những k tâm bán đứng gia đình của mình để leo lên
một nấc. Nếu anh ghê tởm nghề này thì ta hãy xem thử nghề khác xem. Nam tước Rastignac
muốn làm luật sư? Ồ, quá đẹp. Phải sống khổ sở trong vòng mười năm, tiêu một nghìn franc
một tháng, phải một thư viện, một văn phòng, phải đi lại giao du nhiều, phải bám áo của
một ủy nhiệm viên
2
để các vụ kiện, phải khua môi múa mép khắp nơi. Nếu anh thấy dễ chịu
với nghề này, tôi không nói anh không nên theo; nhưng anh hãy tìm cho tôi khắp Paris năm
luật lúc năm mươi tuổi kiếm nhiều hơn năm mười nghìn franc một năm
3
?
Đem so sánh, chiến lược để tiến thân Vautrin đề xuất cho Rastignac hiệu quả hơn
tột bậc. Nếu lấy Victorine, thiếu nữ ẩn dật sống cùng nhà trọ, người chỉ mệt mỗi chàng
Eugène hào hoa, anh sẽ tức thì chạm tay vào khối tài sản 1 triệu franc. Điều này sẽ giúp anh lúc
vừa tròn 20 tuổi được hưởng 50000 franc tiền lãi hàng năm (khoảng 5% tổng số vốn) và ngay
lập tức đạt tới độ sung túc cao hơn mười lần những một công tố viên được nhiều năm
sau đó (và cao bằng tiền lương lúc 50 tuổi của một vài luật Paris giàu nhất thời đó, sau
rất nhiều năm nỗ lực và mưu mô).
Kết luận hiển hiện: không chần chừ phải lấy ngay Victorine, gạt qua một bên việc
không xinh đẹp cũng không quyến lắm. Eugène nuốt từng lời một, cho đến phát súng ân huệ:
để này, hiện đang không chính danh, được cha mẹ giàu của công nhận và thật sự trở
thành người thừa kế của gia sản 1 triệu franc Vautrin vừa nói đến, trước hết phải ám sát
anh trai ta, việc tay cựu sẵn sàng đảm nhiệm chỉ cần thù lao. Nhưng thế hơi quá
sức Rastignac: nhiên anh ta cực nhạy cảm trước những lẽ của Vautrin về sự vượt trội
2
người dịch. Nguyên bản: avoué. Chỉ những người hoàn thiện các thủ tục pháp và trình hồ ra tòa án cho
các bên liên quan. Nghề này đã không còn tồn tại Pháp sau b luật cải cách ngày 25 tháng 1 năm 2011.
3
Cùng sách trên, trang 131. Để đo lường thu nhập và tài sản, Balzac thường hay dùng đồng franc-vàng hoặc
đồng livre tournois (hai đơn vị này tương đương nhau kể từ khi đồng franc germinal được đưa vào lưu hành), đôi
khi cũng dùng đồng écu (đồng tiền này trị giá 5 franc vào thế kỉ 19), và hiếm gặp hơn đồng louis vàng (tức
đồng 20 franc, giá trị bằng 20 livre dưới Chế độ Cũ). Thời đó không phồng giá cả, tất cả các đơn vị tiền tệ
trên đều ổn định đến mức người đọc thể dễ dàng chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác. Xem chương 2.
Ta sẽ quay lại bàn chi tiết về các khoản tiền Balzac nói tới trong chương 11.
22l5.com 283
của thừa kế so với học vấn, nhưng chưa đến độ phạm tới giết người.
Câu hỏi chính: làm việc hay thừa kế
Kinh hoàng nhất trong bài diễn thuyết của Vautrin sự chính xác của các con số và của bức
tranh hội hắn v ra. Như ta sẽ thấy trong phần sau, theo tình trạng cấu trúc thu nhập và
tài sản tại Pháp vào thế kỉ 19, mức độ dả những người trên cùng nấc thang thừa kế
được thực tế cao hơn rất nhiều so với các thu nhập trên cùng nấc thang làm việc. Nếu đã
như vy thì làm việc để làm gì, thậm chí xử tử tế để làm gì: bất bình đẳng hội xét toàn
thể đã đạo đức, không chính đáng rồi, tại sao không đi đến cùng sự không đạo đức để vơ
vét vốn bằng mọi phương tiện?
Chi tiết các con số thế nào đi nữa (rất sát thực tế trong trường hợp đang xét nói riêng),
sự kiện trung tâm vẫn là: tại Pháp đầu thế kỉ 19 cũng như Thời Tươi đẹp, làm việc và học vấn
không giúp đạt được cùng độ sung túc như thừa kế và thu nhập từ tài sản. Đối với mỗi người
thời đó, thực tế này hiển nhiên đến mức, chất chứa đến mức Balzac không hề cần đến các
số liệu thống tiêu biểu, các đường chia mười hay chia một trăm được định nghĩa tỉ mỉ để biết
chắc đúng. Ta cũng thấy một thực tế như vậy tại Liên hiệp Anh thế kỉ 18 và thế kỉ 19.
Đối với các nhân vật chính của Jane Austen, câu hỏi làm việc còn không hề được đả động: chỉ
tài sản, được qua thừa kế hoặc hôn nhân, đáng được tính tới. Nói rộng hơn, tình hình
cũng như vy trong gần như tất cả mọi hội cho đến tận Chiến tranh thế giới thứ nhất - thời
khắc kết liễu của các hội coi trọng tài sản. Một trong những ngoại lệ hiếm hoi nước Mĩ,
hay ít ra các hội nhỏ “tiên phong” tại các bang phía Bắc và phía Tây, nơi không nhiều
vốn thừa kế tại thế kỉ 18 và thế kỉ 19 (tình trạng này không kéo dài lâu). Tại các bang phía Nam
(nơi ngự trị một sự pha trộn giữa vốn đất đai và vốn lệ), thừa kế cũng nặng đô không kém
so với Châu Âu già cỗi. Trong tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió, những người theo đuổi Scarlett
O’Hara cũng không trông cậy nhiều hơn Rastignac mấy vào học vấn hay tài năng để bảo đảm
sự sung túc tương lai của mình: kích cỡ đồn điền của cha họ - hay của cha vợ họ - quan trọng
hơn rất nhiều. Để tỏ sự khinh thường của hắn đối với mọi khái niệm đạo đức, năng lực hay
công bằng hội, Vaurin nói thêm trong bài diễn thuyết dành cho anh chàng Eugène trẻ tuổi
rằng hắn thể nào cũng sống quãng đời cuối như một ch lệ tại phía Nam nước và sẽ bơi
284 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
trong nhung lụa bằng tiền lãi từ lệ
4
. Hiển nhiên Châu Tocqueville vẽ ra không cuốn
hút tên cựu lắm
5
.
Bất bình đẳng trong thu nhập từ làm việc nhiên còn xa mới luôn luôn công bằng; và lẽ
cũng quá trớn khi rút gọn vấn đề công bằng hội thành sự so sánh độ lớn tương đối giữa
thu nhập từ làm việc và thu nhập từ thừa kế. Mặc vy, niềm tin rằng các bất bình đẳng nên
được đến từ lao động và năng lực nhân, hay ít ra niềm hi vọng đặt vào một sự chuyển biến
theo hướng đó, một yếu tố cấu thành nên thể chế hiện đại dân ch của chúng ta. Thật vậy, ta
sẽ thấy bài diễn văn của Vautrin trong chừng mực nào đó đã không còn đúng nữa, ít nhất
tạm thời, trong các hội Châu Âu thế kỉ 20. Trong các thập kỉ sau chiến tranh, tài sản thừa
kế đã rút xuống còn rất ít so với thực tế trước đó, và lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, làm việc
và học vấn trở thành con đường lên top chắc chắn nhất. Vào thời đầu thế kỉ 21 này, mặc đủ
loại bất bình đẳng lại nổi lên, và rất nhiều điều hiển nhiên v tiến b hội và dân ch đang
lung lay, quan điểm rộng rãi và áp đảo - rằng thế giới đã thay đổi tận gốc rễ k từ thời Vautrin
- vẫn được giữ nguyên. Ngày nay ai khuyên một sinh viên luật trẻ tuổi b học và theo đuổi
chiến lược tiến thân như tên cựu đã gợi ý? nhiên, thể những trường hợp hiếm hoi
chạm tay vào gia sản thừa kế vẫn chiến lược tốt nhất
6
. Nhưng phải đặt cược vào học vấn,
lao động và sự thành đạt trong công việc, không chỉ lợi hơn, còn đạo đức hơn, trong
đại đa số các trường hợp không?
Đó chính hai câu hỏi bài diễn thuyết của Vautrin đã dẫn ta tới. Hai câu hỏi ta sẽ
cố gắng trả lời trong các chương tiếp theo, dựa vào các dữ liệu (không hoàn hảo) ta có. Đầu
tiên, chắc chắn cấu trúc thu nhập từ làm việc và thu nhập từ thừa kế đã chuyển biến kể
từ thời Vautrin không, và chuyển biến theo tỉ lệ nào? Tiếp theo và cũng rất quan trọng: giả sử
rằng một sự chuyển biến như vy đã xảy ra, ít nhất một phần, thì đâu nguyên do chính xác
cho việc đó, và phải không thể đảo ngược không?
4
Cùng sách trên, trang 131.
5
người dịch. Tocqueville trong cuốn Dân chủ tại Châu đã bàn về một hội dân ch và công bằng hơn.
Bạn đọc quan tâm thể xem thêm nguyên bản tiếng Pháp De la démocratie en Amérique, xuất bản năm 1835
và 1840 (2 tập).
6
Một người con trai của cựu tổng thống nước Cộng hòa Pháp, sinh viên khoa luật Paris, theo báo chí đưa tin,
gần đây đã lấy người thừa kế chuỗi cửa hàng Darty; không anh gặp vợ mình tại nhà trọ Vauquer không.
22l5.com 285
Bất bình đẳng từ làm việc, bất bình đẳng từ vốn
Để thể trả lời câu hỏi này, đầu tiên ta phải làm quen với các khái niệm liên quan và với các
sự kiện lặp đi lặp lại đặc trưng của bất bình đẳng thu nhập từ làm việc và từ vốn trong các
hội và các thời khác nhau. Ta đã thấy trong phần đầu tiên của sách rằng thu nhập luôn
thể được phân tích thành tổng số của thu nhập từ làm việc và thu nhập từ vốn. Thu nhập từ
làm việc bao gồm tiền lương (phần ch yếu), và để cho việc trình bày được đơn giản đôi khi ta
dùng bất bình đẳng tiền lương để chỉ bất bình đẳng thu nhập từ làm việc. Thực ra nếu nói một
cách hoàn toàn chính xác, thu nhập từ làm việc còn bao gồm thu nhập từ làm việc không lương,
loại thu nhập đã từng đóng vai trò ch yếu trong quá khứ và hiện nay vẫn đóng vai trò không
b qua được. Thu nhập từ vốn cũng thể các dạng khác nhau: tập hợp toàn b các thu
nhập nhận được với cách ch sở hữu vốn, độc lập với làm việc, bất kể dưới tên gọi pháp
chính thức nào (tiền thuê nhà, lợi nhuận trên vốn góp, tiền lãi, tiền phí, lợi nhuận, giá trị thêm,
v.v).
Theo định nghĩa, bất bình đẳng thu nhập trong mọi hội đều kết quả của hai thành phần
sau gộp lại: một mặt bất bình đẳng thu nhập từ làm việc, và mặt khác bất bình đẳng thu
nhập từ vốn. Mỗi thành phần trong hai thành phần này được phân phối càng bất bình đẳng, thì
bất bình đẳng tổng thể càng mạnh. Nói đến cùng, ta hoàn toàn thể tưởng tượng ra những
hội bất bình đẳng từ làm việc rất cao và bất bình đẳng từ vốn thấp hơn nhiều, hoặc
những hội khác điều ngược lại đúng, và cuối cùng những hội hai thành phần trên
rất bất bình đẳng hoặc rất bình đẳng.
Nhân tố quyết định thứ ba sự liên hệ giữa hai chiều nói trên: trong chừng mực nào những
người thu nhập từ làm việc cao cũng thu nhập từ vốn cao? Sự liên hệ y (gọi sự tương
quan trong thuật ngữ thống kê) càng cao, thì bất bình đẳng tổng thể càng mạnh (tất cả các
tham số khác được giữ nguyên). Trong thực tế, sự quan hệ lẫn nhau giữa hai chiều trên thường
yếu hoặc âm trong những hội bất bình đẳng từ vốn mạnh đến mức cho phép ch sở
hữu không phải làm việc (ví dụ, các nhân vật chính của Jane Austen thường quyết định không
cần nghề nghiệp). Hiện nay việc này ra sao, và sẽ như thế nào trong thế kỉ tới?
Cũng cần nói thêm bất bình đẳng thu nhập từ vốn thể mạnh hơn bản thân bất bình
đẳng vốn, nếu những người sở hữu tài sản lớn tìm được cách thu về tỉ lệ lãi trung bình cao hơn
286 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
tỉ lệ lãi trên các tài sản trung bình và nhỏ. Ta sẽ thấy rằng chế này thể tác nhân làm
tăng rất mạnh biên độ của bất bình đẳng, đặc biệt trong thế kỉ sắp tới. Trong trường hợp đơn
giản khi tỉ lệ lãi trung bình như nhau tất cả các cấp bậc tài sản, thì mặc nhiên hai bất bình
đẳng trên sẽ trùng nhau.
Khi nghiên cứu v bất bình đẳng trong phân b thu nhập, ta nhất thiết phải phân biệt riêng
rẽ tỉ mỉ các chiều và các thành phần khác nhau này, trước hết các do chuẩn mực và đạo
đức (cách đặt vấn đề về sự chính đáng của bất bình đẳng rất khác nhau tùy theo đó bất
bình đẳng thu nhập từ làm việc, từ thừa kế hay từ tiền lãi trên vốn), tiếp đến các chế
kinh tế, hội và chính trị khả năng giải thích cho các tiến trình lịch sử khác nhau hoàn
toàn phân biệt. Đối với bất bình đẳng thu nhập từ làm việc, các chế chính bao gồm chế
cung cấp-nhu cầu đối với người lao động tay nghề, trạng thái của hệ thống giáo dục, và các
luật lệ cũng như thể chế gây ảnh hưởng lên sự vận hành của thị trường lao động và sự hình
thành tiền lương. Đối với bất bình đẳng thu nhập từ vốn, các quá trình quan trọng nhất các
lựa chọn tiết kiệm và đầu tư, các luật lệ về chuyển nhượng và thừa kế tài sản, sự vận hành của
thị trường bất động sản và tài chính. Thông thường các số đo thống kê về bất bình đẳng thu
nhập được các nhà kinh tế học sử dụng và được bàn luận trọng các cuộc tranh luận công chúng
những chỉ số tổng hợp (chẳng hạn như chỉ số Gini): chúng trộn lẫn những thứ rất khác nhau,
đáng chú ý bất bình đẳng từ làm việc và từ vốn, do vy không thể tách riêng một cách
ràng các chế vận động và các chiều hướng đa dạng của bất bình đẳng. Chúng ta ngược lại sẽ
cố gắng phân biệt chúng chính xác nhất thể.
Phân phối thu nhập từ vốn: luôn bất bình đẳng hơn từ làm
việc
Trong thực tế, khi đo lường bất bình đẳng thu nhập, ta nhận thấy bất bình đẳng từ vốn luôn
mạnh hơn rất nhiều so với bất bình đẳng từ làm việc. Sự phân b sở hữu vốn và thu nhập từ
vốn luôn luôn tập trung hơn sự phân b thu nhập từ làm việc.
Hai việc sau đáng được nói ngay. Đầu tiên, trong khuôn khổ số liệu được, ta gặp hiện
tượng y tại tất cả các nước và tất cả các thời kì, không ngoại lệ, và lần nào cũng rất chắc
22l5.com 287
nặng. Để hình dung ra độ lớn bộ, 10% những người thu nhập từ làm việc cao nhất nói
chung nhận khoảng 25%-30% tổng thu nhập từ làm việc, trong khi đó 10% những người tài
sản lớn nhất luôn sở hữu hơn 50% tổng tài sản, và đôi khi lên tới tận 90% tại một số nước. Hoặc
nói vẻ thuận hơn, 50% những người được trả thấp nhất luôn nhận được một phần không nhỏ
trong tổng thu nhập từ làm việc (nhìn chung từ một phần đến một ba, xấp xỉ bằng với 10%
thu nhập cao nhất), trong khi đó 50% những người nghèo nhất xét theo tài sản sẽ mãi mãi không
sở hữu - hoặc gần như không sở hữu (luôn thấp hơn 10% tổng tài sản, và nói chung thấp
hơn 5%, tức thấp hơn mười lần so với 10% những người giàu nhất). Bất bình đẳng từ làm việc
thường các bất bình đẳng nhẹ nhàng, chừng mực, gần như hợp (thế mới thể được gọi
bất bình đẳng - và ta sẽ thấy điểm này phải được bàn bạc một cách rất chừng mực). So sánh
tương đối, bất bình đẳng từ vốn luôn các bất bình đẳng cực độ.
Tiếp theo, ta phải nhấn mạnh ngay rằng hiện tượng trên tự thân không hề một hiện
tượng đơn giản, và cho ta biết một cách khá chính xác về bản chất của các quá trình kinh tế
và hội liên quan đến sự vận động của tích lũy và phân b tài sản.
Thật vy, ta thể dễ dàng tưởng tượng ra các chế dẫn đến việc tài sản được phân b
bình đẳng hơn khi so sánh với thu nhập từ làm việc. dụ, giả sử rằng tại một thời điểm cho
trước thu nhập từ làm việc không những phản ánh bất bình đẳng tiền lương dài hạn giữa các
nhóm người lao động khác nhau - tùy theo mức độ lành nghề và vị trí cấp bậc của từng người
-, còn phản ánh các sốc ngắn hạn (ví dụ tiền lương hoặc thời gian làm việc trong các
khu vực kinh tế khác nhau biến động mạnh từ năm này sang năm khác hay trong quá trình sự
nghiệp của từng người). Kết quả bất bình đẳng thu nhập từ làm việc tại thời điểm đó sẽ rất
mạnh, nhưng phần giả tạo, bởi lẽ sẽ giảm đi nếu ta đo lường trên giai đoạn dài hơn, dụ
trong vòng mười năm chứ không phải một năm duy nhất (như thường được làm do thiếu các
số liệu cho giai đoạn dài hơn), hay thậm chí trên toàn b đời người (sẽ tưởng để tiến hành
nghiên cứu nghiêm túc về các bất bình đẳng hội và số phận Vautrin đã nói tới, nhưng
không may, thường rất khó đo lường được các con số này).
Trong một hội như vy, tích lũy tài sản thể sẽ diễn ra ch yếu dưới do đề phòng tình
huống xấu (người ta tích trữ để dự trù cho một biến cố xấu trong tương lai). Trong trường hợp
y bất bình đẳng tài sản sẽ thấp hơn bất bình đẳng thu nhập từ làm việc. dụ, bất bình đẳng
tài sản thể sẽ cùng độ lớn với bất bình đẳng thu nhập từ làm việc dài hạn (được đo trên
288 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
toàn b quá trình sự nghiệp), và như vy sẽ thấp hơn hẳn so với bất bình đẳng thu nhập từ làm
việc tức thời (được đo tại một thời điểm nhất định). Dưới c độ logic, những việc trên đều
khả năng xảy ra, nhưng v không sát thực tế lắm, bởi lẽ khắp nơi bất bình đẳng tài sản luôn
lớn hơn bất bình đẳng thu nhập từ làm việc rất nhiều. Sự tích trữ đề phòng biến cố xấu ngắn
hạn đúng tồn tại trong thế giới thật, nhưng đó vẻ không phải chế chính cho phép
giải thích thực trạng tích lũy và phân b tài sản.
Ta cũng thể tưởng tượng ra những chế dẫn đến việc bất bình đẳng tài sản biên độ
tương đồng với bất bình đẳng thu nhập. Đặc biệt, nếu sự tích lũy tài sản ch yếu để chuẩn bị cho
các chu trình cuộc sống
7
(người ta tích lũy để dùng lúc nghỉ hưu), như Modigliani đã thuyết
hóa, mỗi người sẽ tích lũy một số vốn gần như tỉ lệ với mức lương của họ, để thể xấp xỉ giữ
vững (hoặc giữ theo tỉ lệ) mức sống của mình sau khi ngừng làm việc. Trong trường hợp y,
bất bình đẳng tài sản đơn giản sẽ bất bình đẳng thu nhập trượt đi theo thời gian, và tự
chỉ tầm quan trọng hạn chế, bởi lẽ nguồn gốc thật sự duy nhất của bất bình đẳng hội sẽ
bất bình đẳng từ làm việc.
Một lần nữa, một chế tính thuyết như trên hợp v mặt logic và thể đóng vai
trò không nhỏ trong thế giới thực - nhất trong các hội đang già đi. Nhưng dưới c độ định
lượng, đó không phải chế chính: tiết kiệm cho chu trình cuộc sống, cũng như tiết kiệm đề
phòng tình huống xấu không cho phép giải thích sự tập trung cao độ của sở hữu vốn ta quan
sát thấy trong thực tế. Những người tuổi về trung bình nhiên giàu hơn những người trẻ;
nhưng sự tập trung tài sản xét trong từng nhóm tuổi gần ngang với sự tập trung tài sản xét
trong toàn thể dân số. Nói cách khác, ngược lại với một ý kiến phổ biến, xung đột tuổi tác đã
không thay thế xung đột tầng lớp. Sự tập trung vốn cao độ ch yếu đến từ độ lớn của tài sản
thừa kế và các hiệu ứng tích lũy của (ví dụ, sẽ dễ tiết kiệm hơn khi người ta được thừa kế
một căn hộ và không phải trả tiền th nhà). Việc tiền lãi trên tài sản thường giá trị cực cao
cũng đóng vai trò đáng kể trong quá trình động nói trên. Lát nữa trong phần thứ ba này, ta sẽ
trở lại bàn chi tiết về các chế khác nhau và nghiên cứu xem độ lớn của chúng đã tiến triển
trong không gian và thời gian như thế nào. Ngay lúc này, ta hãy nhớ đơn giản biên độ của bất
bình đẳng từ vốn - xét một cách tuyệt đối hay một cách tương đối với bất bình đẳng thu nhập
từ làm việc - hướng rệt theo một số chế nhất định.
7
người dịch. Nguyên bản: un motif de cycle de vie.
22l5.com 289
Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: một vài số độ lớn
Trước khi phân tích các tiến trình lịch sử tại các nước khác nhau, ta hãy kể cụ thể hơn v các
số độ lớn đặc trưng chung cho bất bình đẳng từ làm việc và từ vốn. Mục đích để giúp bạn
đọc làm quen với các con số và các khái niệm - đường chia mười, đường chia một trăm, v.v. - b
ngoài vẻ hơi thuật, thậm chí ngán ngẩm đối với một số người, nhưng thực tế chúng rất
ích khi phân tích và tìm hiểu các chuyển biến của cấu trúc bất bình đẳng trong các hội khác
nhau, miễn chúng được dùng đúng.
Ta trình bày trong các bảng T.7.1, T.7.2 và T.7.3 một số dụ v phân b tài sản quan sát
được tại các nước khác nhau trong các thời khác nhau. Các con số được ch ý làm tròn xấp
xỉ, nhưng giúp nắm được ý tưởng đầu tiên về thế nào bất bình đẳng thấp, thế nào trung
bình hay bất bình đẳng cao trong hội quanh ta và trong quá trình lịch sử; một bên bất
bình đẳng thu nhập từ làm việc, bên kia bất bình đẳng sở hữu vốn, và cuối cùng tổng thể
bất bình đẳng thu nhập - thu được bằng cách cộng thu nhập từ làm việc và thu nhập từ vốn.
dụ, đối với bất bình đẳng thu nhập từ làm việc, ta nhận thấy rằng trong các hội bình
đẳng nhất, dụ các nước Scandinavia trong những năm 1970-1980 (bất bình đẳng đã tăng nhẹ
tại Bắc Âu kể từ thời đó, nhưng các nước này vẫn các nước ít bất bình đẳng nhất), sự phân
b xấp xỉ như sau. Nếu ta xét toàn b dân số trưởng thành, thì 10% dân số thu nhập cao
nhất nhận suýt soát hơn 20% tổng khối lượng thu nhập từ làm việc (ch yếu khối tiền lương),
50% dân số được trả thấp nhất nhận khoảng 35%, và 40% những người giữa lĩnh khoảng 45%
tổng thu nhập (xem bảng T.7.1
8
). nhiên đó vẫn không phải một sự bình đẳng hoàn hảo,
bởi nếu vy mỗi nhóm sẽ phải được nhận tương đương với tỉ lệ của nhóm mình trong toàn
b dân số (10% những người được trả cao nhất phải được nhận chính xác 10% khối lượng thu
nhập, và 50% những người được trả thấp nhất phải được nhận 50%). Nhưng đó một sự bất
bình đẳng không quá cực độ, ít ra so với những ta thấy tại các nước khác và các thời
khác, và nhất so với bất bình đẳng sở hữu vốn xảy ra gần như khắp mọi nơi - bao gồm cả các
nước Scandinavia.
8
Các đường chia mười được xác định trên dân số trưởng thành (người chưa thành niên nói chung không
thu nhập), và trên qui thể nếu số liệu cho phép. Các ước lượng trình bày trong bảng T.7.1-T.7.3 được tính
theo cách này. Đối với một số nước - dụ như Pháp và -, các số liệu lịch sử về thu nhập chỉ trên qui
hộ gia đình (tức thu nhập của các cặp đôi được cộng vào nhau). Điều này làm các đương chia mười thay đổi
một chút, nhưng không ảnh hưởng lắm đến các tiến trình dài hạn ta quan tâm. Đối với tiền lương, nói chung
ta các số liệu lịch sử trên qui thể. Xem phụ lục thuật.
290 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
45%
25%
0,36
Lecture: dans les sociétés l'inégalité des revenus du travail est relativement faible (comme les pays scandinaves dans les années
1970-
1980), les 10% les mieux payés reçoivent environ 20% des revenus du travail, les 50% les moins bien payés environ 35%, et les 40%
du
milieu environ 45%. Le coefficient de Gini correspondant (indicateur synthétique d'inégalité allant de 0 à 1) est de 0,19. Voir annexe technique.
0,19 0,26 0,46
Coefficient de Gini correspondant
(indicateur synthétique d'inégalité)
30%
40%
18%
Inégalité
très forte
( Etats-Unis
2030?)
Inégalité
moyenne
( Europe 2010)
Inégalité
faible
( pays
scandinaves,
années 1970-80)
5% 17%
Inégalité
forte
( Etats-Unis 2010)
20%
7%
dont: les 1% les plus riches
("classes dominantes")
12%
dans le temps et l'espace
Part des différents groupes
dans le total des revenus du travail
45%25%
Les 10% les plus riches
"Classes supérieures"
35%
dont: les 9% suivants
("classes aisées")
Les 40% du milieu
"Classes moyennes"
Les 50% les plus pauvres
"Classes populaires"
20%
28%
35%
35%
45%
23%15%
Bảng T.7.1: Tổng thể bất bình đẳng thu nhập từ làm việc trong không gian và thời gian
22l5.com 291
dont: les 1% les plus riches
("classes dominantes")
dont: les 9% suivants
("classes aisées")
30%
Part des différents groupes
dans le total des patrimoines
20%
Les 10% les plus riches
"Classes supérieures"
Inégalité
moyenne-
forte
( Europe 2010)
60%
35%
5%
Inégalité
moyenne
( pays
scandinaves,
années 1970-80)
50%
20%
30%
Tableau 7.2. L'inégalité de la propriété du capital
dans le temps et l'espace
35%
Inégalité
très forte
( Europe 1910)
Inégalité
forte
( Etats-Unis
2010)
Inégalité
faible
(jamais
observée;
société idéale?)
10%
40%
25%
90%70%
50%
45% 40%
10% 5%
5%25%
35%
5%
35%
Les 40% du milieu
"Classes moyennes"
Les 50% les plus pauvres
"Classes populaires"
25%
Lecture: dans les sociétés caractérisés par un inégalité "moyenne" de la propriété du capital (comme les pays scandinaves dans les
années
1970-1980), les 10% les plus riches en patrimoine détiennent environ 50% des patrimoines, les 50% les moins riches environ 10%, et les
40%
du milieu environ 40%. Le coefficient de Gini correspondant est de 0,58. Voir annexe technique.
0,33 0,73 0,85
Coefficient de Gini correspondant
(indicateur synthétique d'inégalité)
0,58 0,67
Bảng T.7.2: Bất bình đẳng sở hữu vốn trong không gian và thời gian
292 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
15%
35%
25%
30%
40%
30%18%
30%45%
60%35%
Les 10% les plus riches
"Classes supérieures"
50%
10%
dont: les 1% les plus riches
("classes dominantes")
20%
dont: les 9% suivants
("classes aisées")
Tableau 7.3. L'inégalité totale des revenus (travail et capital)
dans le temps et l'espace
25%
Inégalité
très forte
( Etats-Unis
2030?)
Inégalité
moyenne
( Europe 2010)
Inégalité
faible
( pays
scandinaves,
années 1970-80)
7% 25%
Part des différents groupes
dans le total des revenus
Inégalité
forte
( Etats-Unis 2010;
Europe 1910)
25%
Les 40% du milieu
"Classes moyennes"
20%
0,49
Lecture: dans les sociétés l'inégalité totale des revenus du travail est relativement faible (comme les pays scandinaves dans les
années
1970-1980), les 10% les plus riches détiennent environ 20% du revenu total, et les 50% les plus pauvres environ 30%. Le coefficient de
Gini
correspondant est de 0.26. Voir annexe technique.
0,26 0,36 0,58
Coefficient de Gini correspondant
(indicateur synthétique d'inégalité)
25%
Les 50% les plus pauvres
"Classes populaires"
Bảng T.7.3: Tổng thể bất bình đẳng thu nhập (từ làm việc và từ vốn) trong không gian và thời
gian
22l5.com 293
Để giúp bạn đọc hình dung ra ý nghĩa thực sự của các con số kể trên, ta hãy liên hệ giữa một
bên cách biểu diễn phân phối theo phần trăm, và bên kia những khoản tiền lương bằng tiền
tươi thóc thật những người lao động bằng xương bằng thịt được lĩnh, hay những bất động
sản và tài sản tài chính dưới sở hữu của các ông ch thật: tức những khoản tiền và những con
người làm nên các phân phối và các thứ bậc nói trên.
Cụ thể, nếu 10% những người được trả cao nhất nhận 20% khối lượng tiền lương, theo định
nghĩa điều này nghĩa mỗi người trong nhóm này trung bình sẽ kiếm được gấp đôi so với
tiền lương trung bình hiện hành tại nước đang xét. Cũng như vy, nếu 50% những người được
trả thấp nhất nhận 35% khối lượng tiền lương, thì sẽ tự khắc kéo theo rằng mỗi người trong
nhóm y trung bình sẽ kiếm được hơn hai phần ba tiền lương trung bình một chút (chính xác
70%). Và nếu 40% những người giữa nhận 45% khối lượng tiền lương, thì điều đó nghĩa
tiền lương trung bình của họ sẽ cao hơn một chút (45/40) so với tiền lương trung bình của
toàn hội.
dụ, nếu tiền lương tại nước đang xét 2000 euro một tháng, phân phối kể trên sẽ dẫn
tới 10% những người được trả cao nhất kiếm được trung bình 4000 euro một tháng, 50% những
người được trả thấp nhất lĩnh 1400 euro một tháng, và 40% những người giữa nhận trung bình
2250 euro một tháng
9
. Theo nghĩa đó, nhóm trung gian y tương ứng với “tầng lớp trung bình”
đông đảo, tầng lớp mức sống thường khá gần với thu nhập trung bình của hội đang xét.
Tầng lớp dân dã, tầng lớp trung bình, tầng lớp trên
Nhân tiện xin nói cách gọi tên “tầng lớp dân dã” (được định nghĩa 50% dưới thấp), “tầng
lớp trung bình” (40% “giữa”, nghĩa 40% kẹp giữa 50% dưới thấp và 10% trên cao) và “tầng
lớp cao” (10% trên cao), ta dùng trong bảng T.7.1-T.7.3, hiển nhiên tùy tiện và thể gây
tranh cãi. Ta đã đưa chúng vào một cách thuần túy minh họa và gợi mở, để cố định ý tưởng,
chứ thực ra các thuật ngữ này không đóng vài trò trong phân tích của ta cả, và ta hoàn toàn
thể gọi chúng “tầng lớp A”, “tầng lớp B” và “tầng lớp C”. y vy trong khuôn khổ các
cuộc tranh luận công chúng, vấn đề đặt tên thuật ngữ nói chung không phải hoàn toàn
trong sáng: cách thức mỗi người phân định các tầng lớp thường phản ánh quan điểm chính trị
9
Xem phụ lục thuật và bảng S7.1 (có trên mạng).
294 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
(kín đáo hay lộ liễu) của người đó về tính chính đáng và tính hợp của các mức thu nhập và
tài sản do các nhóm hội khác nhau sở hữu.
dụ, một số người sử dụng thuật ngữ “tầng lớp trung bình” một cách rất rộng lượng: họ chỉ
những người nằm rệt trong đường chia mười phía trên của thứ bậc hội (10% những người
thu nhập cao nhất), thậm chí gần xịt đường chia một trăm phía trên (1% những người thu nhập
cao nhất). Nói chung, mục đích để nhấn mạnh vào việc những người này, mặc thu nhập
khá hơn mức trung bình của hội đang xét, vẫn không tách xa trung bình lắm: qua đó muốn
nói rằng những người y không thật giàu và họ hoàn toàn xứng đáng được hưởng sự khoan
dung của chính quyền, nhất của quan thuế.
Một số khác (đôi khi cùng những người trên) phủ nhận toàn b khái niệm “tầng lớp trung
bình”, và ưa thích miêu tả cấu trúc hội như sự đối lập giữa một số lớn đông đảo “tầng lớp
dân và trung bình” (”dân chúng”) và một nhúm ít ỏi “tầng lớp trên” (giới “tinh túy”). Cách
phân chia như vy thể hợp để miêu tả một số hội nhất định, hay đúng ra để phân
tích một số hoàn cảnh chính trị và lịch sử trong một số hội nhất định. dụ, tại Pháp năm
1789, người ta ước lượng rằng giới cầm quyền chiếm từ 1% đến 2% dân số, giới giáo chiếm ít
hơn 1%, và “đẳng cấp thứ ba” - nghĩa tất cả dân chúng, từ nông dân cho đến giới tài sản,
trong khuôn khổ hệ thống chính trị dưới Chế độ - chiếm hơn 97%.
Mục đích của chúng ta đây không phải để thiết lập lực lượng cảnh sát giữ an ninh ngôn
từ. Trong câu chuyện chỉ mặt đặt tên y, ai cũng vừa đúng vừa sai. Ai cũng đúng khi chọn dùng
những thuật ngữ của mình, và ai cũng sai khi chê bai thuật ngữ của người khác. Cách chúng tôi
định nghĩa “tầng lớp trung bình” (40% những người “ở giữa”) rất dễ gây tranh cãi, bởi lẽ theo
chính cách phân chia này tất cả những người chúng tôi gộp vào trong nhóm này trong thực
tế thu nhập (hoặc tài sản) cao hơn vị trí giữa của hội đang xét
10
. Ta cũng thể cắt
hội đang xét thành ba phần, và gọi đúng một phần ba giữa “tầng lớp trung bình”. Tuy nhiên
chúng tôi thấy định nghĩa của chúng tôi sát với cách dùng phổ biến hơn: thuật ngữ “tầng lớp
trung bình” nói chung được dùng để chỉ những người khá giả hơn rệt đám đông dân chúng,
10
Như ta đã nhắc tới, mức thu nhập vị trí giữa mức đúng một nửa dân số thu nhập thấp hơn.
Trong thực tế, mức vị trí giữa luôn thấp hơn mức trung bình, do phân phối thu nhập thường doãng hơn phía
trên, tức sẽ kéo mức trung bình (chứ không phải mức vị trí giữa) cao lên. Đối với thu nhập từ làm việc,
mức vị trí giữa tiêu biểu vào khoảng 80% mức trung bình (ví dụ, nếu tiền lương trung bình 2000 euro, thì tiền
lương vị trí giữa xung quanh mức 1600 euro). Đối với tài sản, mức vị trí giữa thể cực thấp: thường suýt soát
50% mức tài sản trung bình, thậm chí gần như bằng 0 nếu một nửa dân số nghèo nhất hầu như không sở hữu gì.
22l5.com 295
nhưng vẫn cách khá xa giới tinh túy thực thụ. Nhưng mọi việc đều rất dễ gây bàn cãi, và chúng
tôi không đứng hẳn v bên nào trong vấn đề tế nhị này - vấn đề vừa tính ngôn ngữ lại vừa
tính chính trị.
Thật sự nói, mọi miêu tả về bất bình đẳng dựa trên một số lượng nhỏ các tầng lớp tất
thẩy đều tính giản lược và thô thiển, bởi lẽ thực tế hội luôn ngầm chứa một phân phối tầng
lớp liên tục. Tại mọi cấp độ thu nhập và tài sản cho trước, luôn tồn tại một nhóm người bằng
xương bằng thịt thu nhập và tài sản như vy, các đặc tính và độ đông đảo biến đổi chậm
và đều tùy theo hình dạng của phân phối tầng lớp hiện hành trong hội đang xét. Không bao
giờ tồn tại các đứt y không liên tục giữa các tầng lớp hội khác nhau, giữa “dân chúng” và
giới ”tinh túy”. Chính lẽ đó nghiên cứu của chúng ta hoàn toàn dựa trên các khái niệm thống
kê với sở các đường chia mười (10% cao nhất, 40% giữa, 50% phía dưới). Các đường này
cái hay được định nghĩa hoàn toàn giống nhau trong các hội khác nhau, vy cho phép
thực hiện các phép so sánh nghiêm ngặt và khách quan trong không gian và trong thời gian,
không cần phải phủ nhận sự phức tạp riêng của từng hội, trong đó tính chất bản sự
liên tục của bất bình đẳng hội.
Đấu tranh của các tầng lớp, hay đấu tranh của các đường
chia một trăm?
Bởi đó chính mục đích sâu xa duy nhất của chúng ta: so sánh cấu trúc bất bình đẳng trong
các hội cách rất xa nhau trong không gian và trong thời gian, các hội mọi thứ thoạt
nhìn đều đối lập nhau, và đặc biệt các hội sử dụng các từ ngữ và các khái niệm hoàn toàn
khác nhau để chỉ các nhóm làm nên hội đó. Khái niệm về đường chia mười và chia một trăm
vẻ hơi trừu tượng và chắc thiếu chất thơ. Rất tự nhiên nhận diện các tầng lớp vào thời của
chính mình luôn dễ dàng hơn: nông dân hay quí tộc, người làm công không vốn hay người tài
sản riêng, nhân viên hay nhà quản cao cấp, hầu bàn hay lái buôn. Nhưng cái hay của đường
chia mười và chia một trăm chính chỗ cho phép đặt tương ứng các bất bình đẳng và các
thời ta không thể so sánh nếu dùng cách khác, và mang đến một ngôn ngữ chung theo
nguyên tắc thể được tất cả mọi người thừa nhận.
296 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
Lúc nào cần, chúng tôi sẽ tách các nhóm hội ra chi tiết hơn, với sự giúp đỡ của các đường
chia một trăm hay thậm chí chia một nghìn, nhằm trả lại công bằng cho tính chất liên tục của
bất bình đằng hội. Đặc biệt, trong mỗi hội, bao gồm cả hội công bằng nhất, đường chia
mười phía trên tự cả một thế giới riêng. tập hợp những người thu nhập cao hơn
suýt soát hai hay ba lần thu nhập trung bình, và một số người khác thu nhập dồi dào hơn
thế nhiều chục lần. Để hình dung ban đầu ràng, ta nên tách đường chia mười phía trên
thành hai nhóm nhỏ: một nhóm gồm đường chia một trăm phía trên (mà ta thể gọi “tầng
lớp nổi trội”, ch yếu để cố định ý tưởng chứ không dám nhận rằng thuật ngữ y hay hơn một
thuật ngữ khác nào đó), và nhóm kia gồm chín đường chia một trăm tiếp theo (“tầng lớp khá
giả”).
dụ, nếu ta xem xét trường hợp bất bình đẳng thu nhập tương đối thấp - trường hợp
Scandinavia - trình y trong bảng T.7.1: 20% tổng khối lượng tiền lương dành cho 10% người
lao động được trả cao nhất, ta thấy rằng phần thu nhập 1% những người được trả cao nhất
nhận được tiêu biểu vào khoảng 5% tổng khối lượng tiền lương. Theo định nghĩa, điều y
nghĩa 1% những người được trả lương cao nhất kiếm được trung bình cao hơn năm lần so với
mức lương trung bình, tương đương 10000 euro một tháng trong một hội mức lương trung
bình 2000 euro một tháng. Nói cách khác, 10% những người được trả cao nhất kiếm trung
bình 4000 euro một tháng, nhưng trong nội b nhóm y 1% những người được trả cao nhất
kiếm trung bình vào khoảng 10000 euro một tháng (và 9% tiếp theo kiếm trung bình khoảng
3330 euro). Nếu ta tiếp tục tách ra hơn, và ta xét đường chia một nghìn phía trên (0,1% những
người được trả cao nhất) trong nhóm đường chia một trăm phía trên, thì ta sẽ gặp những người
kiếm được nhiều chục nghìn euro một tháng, và thậm c một vài người kiếm được vài trăm
nghìn euro một tháng, kể cả tại những nước Scandinavia những năm 1970-1980. Đơn giản là,
những người này không đông đảo lắm, nên trọng lượng của họ trong tổng khối lượng thu nhập
từ làm việc sẽ khá hạn chế.
vậy, để phán xét về bất bình đẳng trong một hội, chỉ ra một vài thu nhập rất cao
chưa đủ: dụ nói rằng “bậc lương đi từ 1 lên 10”, hay “từ 1 lên 100”, không cho ta biết nhiều
cả. Ta còn cần phải biết bao nhiêu người đạt được mức trên. Theo quan điểm này, phần thu
nhập (hay tài sản) phần mười phía trên hay phần trăm phía trên nhận được một chỉ số
thích hợp để nhâm nhi thưởng ngoạn bất bình đẳng trong một hội, bởi lẽ không chỉ tính
22l5.com 297
đến sự tồn tại của các thu nhập hay tài sản cao cực độ còn tính đến s lượng những người
thực sự chạm đến các giá trị rất cao này.
Đường chia một trăm phía trên một nhóm đặc biệt thú vị trong khuôn khổ cuộc khảo cứu
lịch sử của chúng ta, do nhóm này đại diện cho một phần nhiên rất ít ỏi trong toàn b dân
số (theo định nghĩa), nhưng đồng thời một nhóm hội lớn hơn nhóm các nhân vật tinh túy
cấp cao gồm vài chục hoặc vài trăm thành viên đôi khi rất thu hút sự chú ý (chẳng hạn như “hai
trăm gia đình” tại Pháp - dùng để chỉ hai trăm người giữ phiếu góp vốn lớn nhất của Ngân hàng
Pháp thời giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới; hoặc bảng xếp hạng các gia sản lớn nhất được
Forbes và các tạp chí tương tự công b hiện nay, nói chung chỉ bao gồm vài trăm người). Trong
một nước gần 65 triệu dân như nước Pháp năm 2013, tức khoảng 50 triệu dân trưởng thành,
đường chia một trăm phía trên tập hợp cũng được 500000 người thành niên. Trong một nước
320 triệu dân như nước Mĩ, tức 260 triệu dân thành niên, đường chia một trăm phía trên
số lượng 2,6 triệu dân trưởng thành. vy đó những nhóm hội rất đông đảo về số lượng,
những nhóm ta không thể không để ý trong một nước, nhất khi họ xu hướng sống cùng
thành phố, thậm c cùng khu phố. Tại tất cả các nước, đường chia một trăm phía trên chiếm
vị trí to lớn không chỉ trong chuyện tiền bạc còn trong toàn khung cảnh hội nữa.
Khi xem xét việc này, ta thấy rằng trong tất cả các hội, đó nước Pháp năm 1789
(từ 1% đến 2% dân số giới cầm quyền) hay nước đầu những năm 2010 (nơi phong trào
Occupy Wall Street đang nhắm thẳng đến nhóm “1%” những người giàu nhất), đường chia một
trăm phía trên đại diện cho một phần dân số đủ lớn về số lượng để thể định hình rệt toàn
thể khung cảnh hội và trật tự chính trị kinh tế.
Qua đó ta thấy cái hay cái lợi của khái niệm đường chia mười và chia một trăm: điều thần
nào giúp ta hi vọng so sánh được bất bình đẳng trong các hội khác nhau đến mức như
Pháp năm 1789 so với năm 2013, nếu không phải bằng cách cố gắng định nghĩa tỉ mỉ các
đường chia mười và chia một trăm, rồi ước lượng phần đóng góp của chúng trong toàn b của
cải của nước đang xét? Một công việc như thế nhiên không cho phép giải quyết tất cả các vấn
đề và trả lời tất cả các câu hỏi - nhưng tốt hơn rất nhiều so với việc không rút ra được cả.
Ta sẽ cố gắng xác định xem dưới độ đo nào nhóm “1%” (theo định nghĩa trên) nổi trội hơn dưới
thời Louis XVI hay thời George Bush hoặc Barack Obama.
Trường hợp phong trào Occupy cũng cho thấy rằng ngôn ngữ chung y, trong đó khái
298 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
niệm “đường chia một trăm phía trên”, mặc thoạt tiên vẻ hơi trừu tượng, thể giúp phơi
y các tiến trình ngoạn mục của bất bình đẳng và các thực tế đập vào mắt, thậm chí thể
dùng làm bảng tra cứu hiện trạng hội trong khuôn khổ các cuộc vận động hội và chính trị
lớn, dựa trên các khẩu hiệu trước nay ít thấy (“We are the 99%”
11
), nhưng rốt cuộc không phải
không gợi nhắc tới tinh thần của bài đả kích lừng danh Đẳng cấp thứ ba gì? do cha xứ Sieyès
công b năm 1789
12
.
Ta hãy nói thứ bậc thu nhập từ làm việc và từ tài sản (kéo theo đường chia mười
và chia một trăm) tất nhiên không bao giờ giống hệt nhau. Những người lĩnh 10% thu nhập
từ làm việc cao nhất hay 50% thấp nhất không trùng với những người sở hữu 10% tài sản lớn
nhất hay 50% nhỏ nhất. Nhóm “1%” thu nhập từ làm việc không trùng với nhóm “1%” thu nhập
từ tài sản. Các đường chia mười và chia một trăm được định nghĩa riêng rẽ đối với một bên
thu nhập từ làm việc, bên kia sở hữu vốn, và cuối cùng đối với toàn b thu nhập (tổng
số của thu nhập từ làm việc và từ vốn) - con số tổng kết hai chiều thu nhập
13
, và thế định
nghĩa một thứ bậc hội tổng hợp, kết quả của hai thứ bậc trước đó
14
. vậy phải luôn nói
ta đang bàn tới loại thứ bậc nào. Trong các hội truyền thống, sự quan hệ lẫn nhau giữa
hai chiều trên thường âm (những người sở hữu tài sản lớn không làm việc, vy vị trí dưới
cùng trong thứ bậc thu nhập từ làm việc). Trong các hội hiện đại, sự quan hệ lẫn nhau nói
chung dương, nhưng không bao giờ tuyệt đối (hệ số quan hệ lẫn nhau luôn thấp hơn 1).
dụ, luôn rất nhiều người thuộc tầng lớp trên về mặt thu nhập từ làm việc nhưng lại thuộc
tầng lớp bình dân về mặt tài sản, và ngược lại. Bất bình đẳng hội nhiều chiều, giống như
xung đột chính trị vy.
Cuối cùng y ghi nhớ sự phân phối thu nhập (và phân phối tài sản) được miêu tả trong
bảng T.7.1-T.7.3 và được phân tích trong chương này hay các chương tiếp theo sự phân phối
gọi “trước thuế”, nghĩa trước khi tính đến các loại thuế. Tùy vào dạng thức của các loại thuế
(và các dịch vụ công cộng và vận chuyển do thuế chi trả), được đánh “tăng dần” hay “giảm dần”
(nghĩa thuế nặng hơn hay nhẹ đi theo thu nhập và tài sản lên cao dần trong thứ bậc hội),
11
người dịch. Tạm dịch: “Chúng tôi nhóm 99%”.
12
“Đẳng cấp thứ gì? Tất. Cho tới nay có trong trật tự chính trị không? Không hề. đòi hỏi ?
chỗ đứng nào đó trong đời sống chính trị”.
13
người dịch. Nguyên bản: la synthèse des deux dimensions. Ý nói hai thành phần của thu nhập: từ làm việc
và từ tài sản (hay vốn).
14
người dịch. Nguyên bản: résultant des deux premières. Ý nói thứ bậc hội do thu nhập từ làm việc và thứ
bậc hội do thu nhập từ vốn tạo thành.
22l5.com 299
sự phân phối sau thuế thể bình đẳng hơn nhiều hoặc bất bình đẳng hơn nhiều so với phân
phối trước thuế. Ta sẽ nghiên cứu việc này trong phần thứ của sách, cũng như nghiên cứu
toàn b các vấn đề liên quan đến sự phân phối lại. Ngay lúc này, ta chỉ quan tâm tới sự phân
phối trước thuế thôi
15
.
Bất bình đẳng từ làm việc: bất bình đẳng nhẹ nhàng?
Ta hãy tiếp tục xem xét các số độ lớn của bất bình đẳng. Dưới thước đo nào bất bình đẳng thu
nhập từ làm việc vừa phải, lí, hay nhẹ nhàng ? nhiên, bất bình đẳng từ làm việc luôn
thấp hơn rất nhiều so với bất bình đẳng từ vốn. Tuy nhiên, sẽ rất sai lầm khi b qua nó, một
mặt do thu nhập từ làm việc chiếm nói chung từ hai phần ba đến ba phần thu nhập quốc
gia, mặt khác do cách biệt giữa các phân phối thu nhập từ làm việc hiện hành tại các nước
khác nhau hết sức đáng kể - điều gợi ý rằng các chính sách công cộng và các sự khác biệt giữa
các nước thể hệ quả quan trọng đối với bất bình đẳng và đối với điều kiện sống của những
nhóm dân số rộng lớn.
Tại các nước thu nhập từ làm việc bình đẳng nhất, như các nước Scandinavia trong những
năm 1970-1980, 10% những người được trả cao nhất nhận khoảng 20% tổng khối lượng thu nhập
từ làm việc, và 50% những người được trả thấp nhất nhận 35%. Tại các nước mức độ bình
đẳng trung bình, như phần lớn các nước Châu Âu ngày nay (ví dụ Pháp hoặc Đức), nhóm đầu
tiên nhận khoảng 25%-30% tổng thu nhập, và nhóm thứ hai khoảng 30%. Và tại các nước cực
bất bình đẳng, như nước đầu những năm 2010 (chắc hẳn một trong những mức độ bất
bình đẳng thu nhập từ làm việc cao nhất trong lịch sử, như ta sẽ thấy trong phần sau), đường
chia mười phía trên chạm 35% tổng thu nhập, trong khi nửa dưới xuống còn 25%. Nói cách khác,
điểm cân bằng giữa hai nhóm k trên đã gần như bị đảo ngược hoàn toàn. Tại các nước bình
đẳng nhất, 50% những người được trả thấp nhất nhận gần gấp đôi tổng khối lượng tiền lương
so với 10% những người được trả cao nhất (sẽ người cho rằng nhóm thứ hai tối thiểu cũng
15
Tùy theo cách dùng, thu nhập thay thế (tức lương hưu và trợ cấp thất nghiệp dùng để thay thế sự mất
thu nhập từ làm việc) được chi trả nhờ vào các khoản đóng góp từ tiền lương (dựa theo một logic đóng góp tập
thể), đã được tính vào trong thu nhập từ làm việc trước thuế. Nếu không việc này, bất bình đẳng thu nhập từ
làm việc trong dân số trưởng thành sẽ mạnh hơn hẳn các mức được trình bày trong bảng T.7.1-T.7.3 (một cách
giả tạo); do một số lượng lớn người nghỉ hưu và người thất nghiệp sẽ thu nhập từ làm việc bằng 0. Trong phần
thứ tư, ta sẽ trở lại vấn đề về sự phân phối lại do hệ thống lương hưu và trợ cấp thất nghiệp vận hành. Bây giờ
ta chỉ đơn giản xem chúng “tiền lương trả sau”.
300 Chương 7. Bất bình đẳng và tập trung thu nhập: các mốc đầu tiên
phải nhận được như vy, bởi lẽ nhóm này đông đảo gấp năm lần nhóm thứ nhất!). Tại các nước
bất bình đẳng nhất, nhóm thứ hai nhận được ít hơn một phần ba so với nhóm thứ nhất. Nếu xu
hướng tăng dần sự tập trung thu nhập từ làm việc tại tiếp diễn, thì vào khoảng năm 2030,
50% những người được trả thấp nhất sẽ nhận tổng khối lượng tiền lương ít hơn hai lần so với
10% những người được trả cao nhất (xem bảng T.7.1). Hiển nhiên, không chắc chắn rằng
tiến trình này sẽ tiếp diễn, nhưng dụ này cho phép minh họa cho việc rằng các chuyển biến
nói trên không hề nhỏ.
Cụ thể, nếu lương trung bình 2000 euro một tháng, phân phối Scandinavia bình đẳng nhất
tương ứng với 4000 euro một tháng cho 10% những người được trả cao nhất (trong đó 10000
euro cho nhóm 1%), 2250 euro cho 40% giữa, và 1400 euro cho 50% những người được trả thấp
nhất, trong khi đó phân phối bất bình đẳng nhất ta đang thấy hiện nay tương ứng với
các thứ bậc rệt hơn hẳn: 7000 euro đối với 10% phía trên (trong đó 24000 euro cho nhóm 1%),
2000 euro đối với 40% giữa, và chỉ 1000 euro một tháng đối với 50% phía dưới.
Đối với một nửa dân số ít được ưu đãi nhất, cách biệt thu nhập đến từ các phân phối khác
nhau không dễ b qua: khi người ta suốt đời 40% thu nhập b sung - 1400 euro thay
1000 euro, chưa tính đến các hiệu ứng từ hệ thống thuế và chuyển nhượng
16
-, sẽ kéo theo
các hệ quả đáng kể đối với các lựa chọn trong cuộc sống, chỗ ra sao, đi nghỉ hay không, chi
phí cho các dự án, cho con cái thế nào, v.v. Cũng cần nhấn mạnh rằng, tại phần lớn các nước,
ph nữ bản chiếm số rất lớn trong nhóm 50% nhận lương thấp nhất, do đó những khác biệt
rất lớn nói trên giữa các quốc giá phần lớn phản ánh khác biệt về khoảng cách tiền lương giữa
nam giới và nữ giới: nhỏ hơn tại Bắc Âu so với các nơi khác.
Đối với phần dân số được ưu đãi nhất, cách biệt thu nhập đến từ các phân phối khác nhau
cũng rất đáng kể: khi người ta suốt đời 7000 euro một tháng thay 4000 euro (hay thậm
c 24000 euro thay 10000 euro), người ta sẽ không chi tiêu như trước, và sẽ nhiều quyền
lực hơn không chỉ về mặt sức mua còn đối với những người khác - dụ thể dùng những
người lương thấp hơn phục vụ cho mình. Nếu xu hướng của tiếp diễn, thu nhập hàng tháng
vào năm 2030 (nếu lương trung bình vẫn 2000 euro một tháng) sẽ 9000 euro đối với 10%
phía trên (trong đó 34000 euro cho nhóm 1%), 1750 euro đối với 40% giữa, và chỉ 800 euro
một tháng đối với 50% phía dưới. Cụ thể, chỉ cần b ra một phần nhỏ trong thu nhập của mình,
16
người dịch. Ý nói chuyển nhượng tài sản.