
236 Chương 6. Sự phân chia vốn-làm việc vào thế kỉ 21
lãi trên vốn trung bình là 5% một năm (r = 5%), thì phần thu nhập từ vốn α trong thu nhập
quốc gia sẽ bằng 30% (và phần thu nhập từ làm việc sẽ là 70%). Vậy tỉ lệ lãi trên vốn được xác
định như thế nào? Để trả lời câu hỏi trung tâm này, ta hãy bắt đầu bằng việc xem xét vắn tắt
các tiến trình trên giai đoạn rất dài, rồi ta sẽ phân tích các cơ chế lí thuyết và các lực kéo kinh
tế và xã hội phía sau các tiến trình đó.
Hai nước mà ta có số liệu đầy đủ nhất kể từ thế kỉ 18 một lần nữa lại là Liên hiệp Anh và
Pháp.
Giống như tỉ số vốn/thu nhập β, phần thu nhập từ vốn α cũng đi theo tiến trình hình chữ
U, nhưng không đậm nét bằng. Nói cách khác, tỉ lệ lãi trên vốn r có vẻ làm tiến trình của số
lượng vốn β mờ nhạt đi: tỉ lệ lãi r cao hơn trong những giai đoạn mà lượng vốn β thấp hơn, và
ngược lại - điều có vẻ khá tự nhiên.
Cụ thể hơn: ta thấy tại Liên hiệp Anh cũng như tại Pháp, phần thu nhập từ vốn ở mức
khoảng 35%-40% thu nhập quốc gia vào cuối thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19, trước khi rớt xuống
khoảng 20%-25% vào giữa thế kỉ 20, rồi lên lại mức khoảng 25%-30% vào cuối thế kỉ 20 và đầu
thế kỉ 21 (xem biểu đồ G6.1-G6.2). Nó tương ứng với tỉ lệ lãi trên vốn trung bình quanh mức
5%-6% vào thế kỉ 18 và 19, trước khi lên tới 7%-8% vào giữa thế kỉ 20, rồi rớt xuống mức khoảng
4%-5% vào cuối thế kỉ 20 và đầu thế kỉ 21 (xem biểu đồ G6.3-G6.4).
Dáng điệu các đường cong và các số độ lớn mà ta vừa nói đến có thể được xem như đáng tin
cậy và có nghĩa, ít nhất là theo các phép xấp xỉ ban đầu. Tuy nhiên, ta hãy nói rõ luôn về các
hạn chế và sự thiếu vững chắc của chúng. Trước tiên, như đã đề cập trong các phần trước, ngay
chính khái niệm tỉ lệ lãi “trung bình” trên vốn đã là một sự xây dựng tương đối trừu tượng rồi.
Trên thực tế, tỉ lệ lãi thay đổi rất mạnh tùy theo loại tài sản và tùy theo kích cỡ của khối tài
sản cá nhân (nói chung vốn ban đầu lớn thì dễ có tỉ lệ lãi cao hơn), tức là qua đó nó đóng vai
trò khuếch đại bất bình đẳng, như ta sẽ thấy trong phần thứ ba của sách. Cụ thể, tỉ lệ lãi trên
các tài sản nhiều rủi ro nhất, bắt đầu bằng vốn công nghiệp (có dạng phần sở hữu rõ tên chủ
trong các xưởng sản xuất gia đình tại thế kỉ 19 hay phiếu góp vốn ẩn tên chủ trong các công ti
niêm yết tại thế kỉ 20), thường vượt quá 7%-8%, trong khi đó tỉ lệ lãi trên các tài sản ít rủi ro
hơn thường thấp hơn trông thấy, ví dụ vào khoảng 4%-5% đối với đất nông nghiệp tại thế kỉ 18
và 19, thậm chí 3%-4% đối với bất động sản vào đầu thế kỉ 21. Đối với các tài sản rất nhỏ bé