258 Chương 6. Sự phân chia vốn-làm việc vào thế kỉ 21
định, đôi khi họ không ngần ngại bỏ qua các số liệu hay các giai đoạn lịch sử mà phần thu nhập
từ vốn tăng lên. Ngược lại, các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa Marx có xu hướng muốn chứng
tỏ bằng mọi giá rằng phần thu nhập từ vốn vẫn đang và sẽ mãi mãi tăng lên, rằng tiền lương
ngưng trệ, và họ đôi khi không ngại việc bóp méo số liệu chút ít. Năm 1899, Eduard Bernstein,
người nhỡ miệng tuyên bố rằng tiền lương đang tăng lên và tầng lớp công nhân sẽ được lợi rất
nhiều nếu hợp tác với chế độ hiện thời (ông ta đang sắp trở thành phó chủ tịch Reichstag), đã
tức khắc bị dồn vào phe thiểu số tại hội nghị của SPD
21
họp ở Hannover. Năm 1937, nhà sử học
và kinh tế học trẻ tuổi người Đức: Jurgen Kuczynski, người mà trong những năm 1950-1960 đã
trở thành giáo sư lịch sử kinh tế học đầy uy tín tại đại học Humboldt Đông Berlin và đã xuất
bản từ năm 1960 đến năm 1972 một bộ sách đồ sộ gồm ba mươi tám tập về toàn bộ lịch sử
tiền lương, đã tuyên chiến với Bowley và với các nhà kinh tế học vì quyền lợi của giới có tài sản
riêng. Kuczynski bảo vệ giả thuyết về một sự xuống cấp liên tục của phần thu nhập từ làm việc
kể từ những ngày đầu của chủ nghĩa vốn công nghiệp cho đến những năm 1930. Điều này đúng
đối với nửa đầu thế kỉ 19 (thậm chí hai phần ba đầu), nhưng là hơi quá phóng đại nếu ta xét
toàn bộ giai đoạn trên
22
. Trong những năm tiếp sau, cuộc tranh luận này trở nên rất quyết liệt
trong các tạp chí khoa học hàn lâm. Năm 1939, trong tạp chí Economic History Review - tạp
chí đã quen in các bài tranh luận lớt phớt, Frederick Brown đã rõ ràng đứng vào phe với Bowley,
phong cho ông là “nhà bác học lớn” và “nhà thống kê nghiêm chỉnh”, trong khi đó Kuczynski chỉ
là một “tên bịp bợm”. Lời lẽ như thế quả là cũng hơi quá thể
23
. Cùng năm đó, Keynes đứng hẳn
vào hàng ngũ các nhà kinh tế học vì quyền lợi của giới có tài sản riêng, và phát ngôn rằng sự
ổn định của phân chia vốn-làm việc là “qui luật được thiết lập chắc chắn nhất trong toàn môn
khoa học kinh tế”. Lời khẳng định này có hơi chút vội vàng, bởi lẽ Keynes chỉ chủ yếu dựa vào
một vài số liệu về công nghiệp chế tạo của Anh trong những năm 1920-1930, điều không đủ để
21
người dịch. Ý nói: Đảng xã hội dân chủ Đức (viết tắt từ tiếng Đức: Sozialdemokratische Partei Deutschlands).
22
Xem J.Kuczynski, Labour condition in Western Europe 1820 to 1935 (người dịch. Tạm dịch: Điều kiện lao
động tại Tây Âu từ năm 1820 đến năm 1935 ), Lawrence và Wishart, 1937. Cùng trong năm đó, Bowley cập nhật
và mở rộng công trình năm 1920 của mình: xem A.Bowley, Wages and Income in the United Kingdom since 1860
(người dịch. Tạm dịch: Tiền lương và thu nhập tại Liên hiệp Anh từ năm 1860 ), Cambridge University Press,
1937. Xem thêm Gesichte der Lage der Arbeiter unter dem Kapitalismus (người dịch. Tạm dich: Lịch sử điều
kiện làm việc của công nhân dưới Chủ nghĩa đồng vốn), 38 tập, Berlin, 1960-1972. Các tập 32, 33 và 34 dành
cho nước Pháp. Xem T.Piketty, Các thu nhập cao tại Pháp tại thế kỉ 20, sách đã dẫn, trang 677-681: đây là một
phân tích phê bình bộ sách của Kuczynski - bộ sách giờ vẫn là một nguồn tư liệu lịch sử không thể bỏ qua được,
dù có nhiều thiếu sót. Bạn đọc quan tâm có thể xem thêm các đầu sách tham khảo khác trong phần phụ lục kĩ
thuật.
23
Xem F.Brown, “Labour and wages” (người dịch. Tạm dịch: “Lao động và tiền lương”), Economic History
Review, 1939.