Chương 5
Tỉ số vốn/thu nhập v dài hạn
Chúng ta vừa nghiên cứu những biến thái của đồng vốn tại Châu Âu và Châu k từ thế kỉ
18. Trong giai đoạn dài, bản chất của tài sản đã chuyển biến hoàn toàn: vốn đất đai đã dần
được thay thế bằng vốn bất động sản, công nghiệp và tài chính. Thế nhưng bất chấp tất cả các
chuyển biến đó, tổng giá trị của dự trữ vốn đo bằng số năm thu nhập quốc gia tương đương - tỉ
số đo lường tầm quan trọng tổng thể của vốn trong nền kinh tế và hội -, dường như không
thật sự thay đổi nhiều trong suốt quá trình lịch sử. Tại Liên hiệp Anh cũng như tại Pháp (những
nước ta số liệu lịch sử đầy đủ nhất), vốn quốc gia chiếm khoảng năm-sáu năm thu nhập
quốc gia vào đầu những năm 2010, tức chỉ thấp hơn một chút so với mức tại thế kỉ 18, 19 và
cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất (khoảng sáu-bảy năm thu nhập quốc gia). Hơn nữa, tỉ số
vốn/thu nhập kể từ những năm 1950 đã tăng lên rất mạnh. Một thực tế như vậy khiến ta tự
hỏi: liệu sự tăng tiến y tiếp diễn trong những thập kỉ sắp tới không, và liệu tỉ số vốn/thu
nhập trở lại, hoặc vượt quá, mức đã từng đạt được trong các thế kỉ đã qua không?
Sự việc nổi cộm thứ hai chính sự khác biệt giữa Châu Âu và Châu Mĩ. Không ngạc nhiên,
Châu lục Già đã chịu ảnh hưởng mạnh hơn và lâu dài hơn từ các biến cố giai đoạn 1914-1945,
thế tỉ số vốn/thu nhập tại Châu Âu trong phần lớn thế kỉ 20 (từ những năm 1920 đến
những năm 1980) đã mức thấp hơn tại Châu Mĩ. Nhưng nếu ta loại giai đoạn chiến tranh và
sau chiến tranh khá dài kể trên, ta thấy rằng tỉ số vốn/thu nhập tại Châu Âu luôn xu hướng
cao hơn Châu Mĩ. Điều này đúng cho thế kỉ 19 và cho đầu thế kỉ 20 (tỉ số vốn/thu nhập vào
193
194 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
khoảng sáu-bảy năm tại Châu Âu, so với bốn-năm năm tại Mĩ) cũng như cuối thế kỉ 20 và đầu
thế kỉ 21: tài sản nhân của Châu Âu một lần nữa vượt hơn mức Châu vào đầu những năm
1990, và đạt xung quanh mức sáu năm thu nhập quốc gia trong những năm 2010, so với suýt
soát hơn bốn năm thu nhập tại (xem biểu đồ G5.1-G5.2
1
).
Graphique 5.1. Capital privé et public: Europe et Amérique, 1870-2010
-100%
0%
100%
200%
300%
400%
500%
600%
700%
800%
1870 1890 1910 1930 1950 1970 1990 2010
Lecture: les mouvements du capital national en Europe comme en Amérique correspondant avant tout aux
mouvements du capital privé. Sources et séries: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Valeur du capital public et privé, en % du revenu national
Etats-Unis
Europe
Capital
public
Capital
privé
Biểu đồ G5.1: Vốn nhân và công cộng: Châu Âu và Châu giai đoạn 1870-2010
Giờ ta sẽ giải các sự việc trên: tại sao tỉ số vốn/thu nhập tại Châu Âu vẻ đang tiến lại
mức cao nhất trong lịch sử, và tại sao xét về cấu trúc lại cao hơn tỉ số y tại Châu Mĩ?
Những lực kéo ma thuật nào dẫn đến việc giá trị của vốn tại một nước nhất định sẽ tương đương
với sáu hay bảy năm thu nhập của nước đó, chứ không phải ba hay bốn năm? tồn tại một
điểm cân bằng
2
cho tỉ số vốn/thu nhập không, được xác định như thế nào, những hệ quả đối
1
Tỉ số vốn/thu nhập của Châu Âu trình bày trong biểu đồ G5.1-G5.2 được ước lượng qua giá trị trung bình
của tỉ số này tại bốn nền kinh tế chính của châu lục: Đức, Pháp, Liên hiệp Anh, Ý (trọng số tổng thu nhập của
nước tương ứng). Tính tổng thể, bốn nước này chiếm hơn ba phần tổng SPTTN của Tây Âu, gần hai phần
ba tổng SPTTN của Châu Âu. Nếu ta tính thêm các nước khác vào (đặc biệt Tây Ban Nha), tỉ số vốn/thu
nhập còn tăng lên mạnh hơn nữa trong những thập kỉ gần đây. Xem phụ lục thuật.
2
người dịch. Nguyên bản: équilibre.
22l5.com 195
Graphique 5.2. Le capital national en Europe et en Amérique, 1870-2010
-100%
0%
100%
200%
300%
400%
500%
600%
700%
800%
1870 1890 1910 1930 1950 1970 1990 2010
Lecture: le capital national (public et privé) vaut 6,5 années de revenu national en Europe en 1910, contre 4,5 années
en Amérique. Sources et séries: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Valeur du capital national et étranger, en % du revenu national
Etats-Unis
Europe
Capital
étranger net
Capital
national
Biểu đồ G5.2: vốn quốc gia tại Châu Âu và Châu giai đoạn 1870-2010
với tỉ lệ lãi trên vốn gì, và đâu mối quan hệ với sự phân chia thu nhập quốc gia thành thu
nhập từ làm việc và thu nhập từ vốn? Để trả lời các câu hỏi trên, ta sẽ bắt đầu bằng việc giới
thiệu một qui luật động - qui luật cho phép liên hệ tỉ số vốn/thu nhập với tỉ lệ tiết kiệm và tỉ lệ
tăng trưởng trong một nền kinh tế nhất định.
Qui luật bản thứ hai của ch nghĩa đồng vốn: β = s/g
V dài hạn, tỉ số vốn/thu nhập β của một nước nhất định được liên hệ một cách đơn giản và
trong sáng với tỉ lệ tiết kiệm s và tỉ lệ tăng trưởng g của thu nhập quốc gia thông qua công thức
sau:
β = s/g
dụ, nếu s = 12% và g = 2%, thì β = s/g = 600%
3
.
3
Công thức β = s/g được đọc β bằng s chia cho g”. Ngoài ra, β = 600% tương đương với β = 6”, cũng
196 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
Nói cách khác, nếu một nước tiết kiệm mỗi năm 12% thu nhập quốc gia và nếu tỉ lệ tăng
trưởng của thu nhập quốc gia 2% một năm, thì về dài hạn tỉ số vốn/thu nhập sẽ bằng 600%:
nước đó sẽ tích lũy số vốn tương đương với sáu năm thu nhập quốc gia.
Công thức trên, được xem như qui luật bản thứ hai của ch nghĩa đồng vốn, thể hiện một
thực tế hiển nhiên nhưng rất quan trọng: một nước tiết kiệm nhiều và tăng trưởng chậm trong
giai đoạn dài sẽ tích lũy khối dự trữ vốn khổng lồ; và việc này thể tác động ngược lại gây hệ
quả đáng kể lên cấu trúc hội và sự phân b của cải tại nước đó.
Hay nói khác đi: trong một hội gần như ngưng trệ, tài sản nguồn gốc từ quá khứ một
cách tự nhiên sẽ chiếm tầm quan trọng cực lớn.
Tức việc tỉ số vốn/thu nhập tại thế kỉ 21 đang trở lại mức cao tính cấu trúc, gần bằng
với thế kỉ 18 và 19, thể được giải thích bằng việc kinh tế đang quay về chế độ tăng trưởng
thấp. Chính sự giảm sút tăng trưởng - nhất tăng trưởng dân số - đã dẫn đồng vốn quay lại.
Điểm bản đây là: những biến động nhỏ của tỉ lệ tăng trưởng thể gây ra những hiệu
ứng rất mạnh lên tỉ số vốn/thu nhập dài hạn.
dụ, với cùng tỉ lệ tiết kiệm 12%, nếu tỉ lệ tăng trưởng giảm xuống còn 1,5% một năm
(thay 2%), thì tỉ số vốn/thu nhập dài hạn β = s/g sẽ tăng lên thành tám năm thu nhập quốc
gia (thay sáu năm). Nếu tỉ lệ tăng trưởng rơi xuống mức 1% một năm, thì tỉ số β = s/g sẽ
lên mười hai năm, tức hội đó sẽ vốn đậm đặc gấp hai lần so với hội tăng trưởng 2%
một năm. Một mặt, đây một tin tốt: vốn thể ích cho tất cả mọi người, và miễn ta tổ
chức hội tốt ai cũng thể được lợi từ việc đó. Nhưng, mặt khác, điều này nghĩa những
người s hữu vốn - với một phân phối vốn cho trước - sẽ kiểm soát phần của cải lớn hơn (chẳng
hạn đo bằng số năm thu nhập trung bình từ làm việc). Trong mọi trường hợp, các hậu quả kinh
tế, hội và chính trị bắt nguồn từ những chuyển biến như vy rất đáng kể.
Ngược lại, nếu tỉ lệ tăng trưởng lên mức 3%, thì β = s/g sẽ giảm xuống chỉ còn bốn năm thu
nhập quốc gia. Nếu cùng lúc đó tỉ lệ tiết kiệm cũng xuống nhẹ về mức s = 9%, thì tỉ số vốn/thu
nhập dài hạn sẽ rơi xuống mức ba năm.
Các hiệu ứng trên thực sự rất mạnh tỉ lệ tăng trưởng ta dùng trong qui luật β = s/g
tỉ lệ tăng trưởng tổng thể của thu nhập quốc gia, nghĩa tổng số của tỉ lệ tăng trưởng thu
vy s = 12% tương đương với s = 0,12 g = 2% tương đương với g = 0,02”. Tỉ lệ tiết kiệm s biểu diễn
khoản tiết kiệm mới thật sự - tức trừ đi sự xuống giá của vốn rồi chia cho thu nhập quốc gia. Ta sẽ trở lại bàn
về điểm này sau.
22l5.com 197
nhập quốc gia theo đầu người và tỉ lệ tăng trưởng dân số
4
. Nói cách khác, với tỉ lệ tiết kiệm vào
khoảng 10%-12% và tỉ lệ tăng trưởng thu nhập theo đầu người vào khoảng 1,5%-2% một năm,
ta sẽ thấy ngay tại sao các nước với dân số gần như ngưng trệ - tức với tỉ lệ tăng trưởng tổng
thể cao hơn 1,5%-2% chút đỉnh, như tại Châu Âu - thể tích lũy khối dự trữ vốn từ sáu đến
tám năm thu nhập quốc gia, trong khi các nước với tỉ lệ tăng dân số vào khoảng 1% một năm -
tức với tỉ lệ tăng trưởng tổng thể vào khoảng 2,5%-3% một năm, như tại Châu - chỉ tích
lũy được khối dự trữ vốn tương đương ba hay bốn năm thu nhập. Và nếu các nước trong nhóm
thứ hai lại còn xu hướng tiết kiệm ít hơn các nước trong nhóm thứ nhất một chút (điều
thể được giải thích bằng việc dân số các nước nhóm thứ hai già đi chậm hơn các nước nhóm thứ
nhất), thì chế tích lũy vốn dễ hiểu nói trên sẽ khiến vốn giảm đi một cách tương ứng. Nói
cách khác, những nước mức độ phát triển và tăng trưởng thu nhập theo đầu người tương tự
thể tỉ số vốn/thu nhập rất khác nhau, đơn giản tăng trưởng dân số tại các nước y
không giống nhau.
Ta sẽ thấy trong phần sau rằng qui luật y cho phép tính toán được tiến trình lịch sử của
tỉ số vốn/thu nhập. Nói riêng, cho phép giải thích tại sao tỉ số vốn/thu nhập ngày nay v
đang quay lại mức rất cao sau các biến cố những năm 1914-1945 và sau pha tăng trưởng nhanh
ngoại lệ trong nửa sau thế kỉ 20. cũng cho phép hiểu được tại sao Châu Âu xu hướng tích
lũy một cách cấu trúc nhiều vốn hơn Châu (hay ít ra tình hình sẽ như vy nếu Châu
5
giữ
được mức tăng trưởng dân số cao hơn Châu Âu, điều chắc hẳn không thể kéo dài mãi mãi).
Nhưng trước khi đề cập các vấn đề trên, nhiều điểm tính quan niệm và thuyết cần được nói
trước.
Qui luật dài hạn
Trước tiên, ta cần nói ngay qui luật bản thứ hai của ch nghĩa đồng vốn, β = s/g, chỉ
thể áp dụng được nếu các giả thiết cốt yếu được thỏa mãn. Thứ nhất, đó một qui luật tới
hạn
6
, nghĩa chỉ áp dụng được cho giai đoạn dài: nếu một nước đều đặn tiết kiệm một phần s
4
Đôi khi người ta hiệu g tỉ lệ tăng trưởng thu nhập quốc gia theo đầu người và n tỉ lệ tăng trưởng dân
số. Trong trường hợp đó công thức trên sẽ được viết β = s/(g + n). Để không làm phức tạp các hiệu, chúng
tôi dùng g để hiệu tỉ lệ tăng trưởng tổng thể của nền kinh tế và viết β = s/g.
5
người dịch. Nguyên bản: outre-Atlantique.
6
người dịch. Nguyên bản: asymptotique.
198 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
trong tổng thu nhập của mình mãi mãi, và tỉ lệ tăng trưởng thu nhập quốc gia vĩnh viễn bằng g,
thì tỉ số vốn/thu nhập của nước đó sẽ tiến ngày càng gần đến β = s/g, rồi dừng lại ổn định tại
mức này. Nhưng việc này không thể xong trong một sáng một chiều: nếu một nước tiết kiệm một
phần s trong tổng thu nhập của mình chỉ trong vòng vài năm, thì sẽ không đủ để tỉ số vốn/thu
nhập chạm mức β = s/g.
dụ, nếu ta xuất phát với số vốn bằng 0 và nếu ta tiết kiệm 12% thu nhập quốc gia trong
vòng một năm, thì việc đó hiển nhiên không cho phép tích lũy số vốn tương đương với sáu
năm thu nhập. Với tỉ lệ tiết kiệm 12% một năm và xuất phát với số vốn bằng 0, ta cần năm
mươi năm để tiết kiệm được số vốn tương đương với sáu năm thu nhập - thế nhưng tỉ số vốn/thu
nhập vẫn chưa bằng sáu, bởi thu nhập quốc gia chính cũng tăng lên nhiều sau nửa thế kỉ,
trừ phi ta giả sử rằng tỉ lệ tăng trưởng của nước đó chính xác bằng 0.
vy nguyên tắc đầu tiên ta nên ghi nhớ tích lũy tài sản rất mất thời gian: cần nhiều
thập kỉ để qui luật β = s/g đúng trong thực tế. Điều này giúp ta hiểu hơn tại sao cần nhiều
thời gian đến thế để các sốc những năm 1914-1945 trở nên mờ nhạt đi tại Châu Âu, và tại
sao ta phải dùng tầm nhìn lịch sử bao quát trong giai đoạn rất dài để nghiên cứu về các vấn đề
y. Trên qui thể, những gia sản lớn đôi khi được gây dựng rất nhanh. Nhưng trên qui
toàn thể một nước, những biến động của tỉ số vốn/thu nhập như được miêu tả qua qui luật
β = s/g những biến động dài hạn.
Đó điểm khác biệt ch yếu với qui luật α = r × β ta gọi qui luật bản đầu tiên
của ch nghĩa đồng vốn trong chương đầu. Theo qui luật này, phần thu nhập từ vốn trong thu
nhập quốc gia α bằng với tỉ lệ lãi trên vốn trung bình r nhân với tỉ số vốn/thu nhập β. Ta nên
nhớ rằng qui luật α = r × β trên thực tế một đẳng thức thuần túy kế toán, mặc nhiên đúng
mọi lúc mọi nơi. Ta cũng thể xem như định nghĩa của phần thu nhập từ vốn trong thu
nhập quốc gia (hay của tỉ lệ lãi trên vốn trung bình, tùy theo số nào dễ đo đạc hơn) hơn một
qui luật. Trái lại qui luật β = s/g kết quả của một quá trình động: biểu diễn một trạng
thái cân bằng một nền kinh tế tiết kiệm với tỉ lệ s và tăng trưởng với tỉ lệ g dần tiến sát tới,
nhưng trong thực tế không bao giờ chạm hẳn vào trạng thái cân bằng này.
Thứ hai, qui luật β = s/g chỉ đúng với những dạng vốn con người tích lũy được. Nếu các
nguồn tài nguyên thiên nhiên thuần túy (nghĩa các tài nguyên thiên nhiên giá trị của
độc lập với mọi sự cải thiện do con người mang lại và với mọi sự đầu được thực hiện trong
22l5.com 199
quá khứ) chiếm phần lớn trong vốn quốc gia, thì hiển nhiên tỉ số β thể rất cao không
cần bất đóng góp nào từ tiết kiệm. Ta sẽ trở lại bàn về biên độ thực tế của vốn không tích
lũy được trong phần sau của sách.
Cuối cùng, qui luật β = s/g chỉ đúng nếu giá tài sản tiến triển, v trung bình, gần giống với
giá tiêu dùng. Nếu giá bất động sản hoặc phiếu góp vốn tăng lên nhanh hơn nhiều so với các giá
khác, tỉ số β giữa giá trị thị trường của vốn quốc gia và dòng thu nhập quốc gia hàng năm thể
cũng rất cao không cần bất cứ tiết kiệm b sung nào. Trong giai đoạn ngắn, những biến
động giá cả tương đối của các loại tài sản - nghĩa giá các loại tài sản so với giá tiêu dùng -,
dạng giá trị thêm hay giá trị bớt, thường mạnh hơn rất nhiều các hiệu ứng khối (nghĩa
hiệu ứng liên quan đến sự tích lũy các khoản tiết kiệm mới). Nhưng trong điều kiện những biến
động giá cả trừ lẫn nhau trong giai đoạn dài, thì qui luật β = s/g nhất định đúng về dài hạn,
và đúng bất kể nước đang xét quyết định tiết kiệm một phần s trong thu nhập quốc gia dưới
do nào đi nữa.
Ta hãy nhấn mạnh điểm này: qui luật β = s/g hoàn toàn không phụ thuộc vào do tích lũy
tài sản của dân (hay đôi khi chính phủ) của một nước nhất định. Trên thực tế, người ta tích
lũy vốn đủ các do - dụ để tăng tiêu dùng tương lai (hay để tránh việc bị giảm đi,
nhất khi sang giai đoạn nghỉ hưu), hoặc để giữ gìn hay gây dựng tài sản cho thế hệ sau, hoặc
để đạt được quyền lực, sự an toàn hoặc uy tín tài sản hay được dùng làm đòn bẩy. Nói
chung, tất cả các động trên đều cùng hiện diện, nhưng theo những tỉ lệ khác nhau tùy theo
từng nhân, từng nước và từng thời. Thậm chí chúng thường mặt cùng lúc trong nội tại
mỗi nhân, và bản thân những người này cũng không thể tách bạch chúng một cách ràng
được. Trong phần ba, ta sẽ quay lại thảo luận về tầm quan trọng của các do kể trên và của
các chế tích lũy tài sản. Ta sẽ thấy rằng vấn đề này những hệ quả đáng kể đối với bất bình
đẳng trong phân b tài sản, vai trò của thừa kế trong cấu trúc bất bình đẳng, và rộng hơn
tính chính đáng hội, đạo đức và chính trị của sự chênh lệch tài sản. Ngay bây giờ, ta chỉ tìm
cách hiểu hơn sự vận động của tỉ số vốn/thu nhập (trong chừng mực nào đó ta thể xắn
tay nghiên cứu vấn đề này một cách độc lập với vấn đề về phân b vốn), và điểm ta muốn
nhấn mạnh qui luật β = s/g thể áp dụng được trong tất cả mọi trường hợp, bất k nguồn
gốc chính xác của tỉ lệ tiết kiệm tại nước đang xét.
Điều này đơn giản đến từ việc tỉ số β = s/g tỉ số vốn/thu nhập ổn định duy nhất trong
200 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
một nước tỉ lệ tiết kiệm hàng năm s và tỉ lệ tăng trưởng thu nhập quốc gia hàng năm
g.
Lập luận đi đến qui luật này rất đẳng. Ta hãy lấy một dụ minh họa. Nếu một nước
tiết kiệm hàng năm 12% thu nhập và nếu dự trữ vốn ban đầu bằng sáu năm thu nhập, thì dự
trữ vốn sẽ tăng 2% một năm
7
, nghĩa bằng đúng nhịp độ tăng trưởng thu nhập quốc gia, do
đó tỉ số vốn/thu nhập sẽ ổn định.
Ngược lại, nếu dự trữ vốn thấp hơn sáu năm thu nhập, thì tỉ lệ tiết kiệm bằng 12% thu nhập
sẽ làm dự trữ vốn tăng hơn 2% một năm, tức nhanh hơn thu nhập, do đó tỉ số vốn/thu nhập
sẽ tăng lên cho đến khi chạm điểm cân bằng.
Đảo lại, nếu dự trữ vốn cao hơn sáu năm thu nhập, thì tỉ lệ tiết kiệm 12% kéo theo việc vốn
sẽ tăng ít hơn 2% một năm, do đó tỉ số vốn/thu nhập không thể giữ được mức và sẽ bắt
đầu giảm về điểm cân bằng.
Trong mọi trường hợp, tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn sẽ đi đến mức cân bằng β = s/g (tùy
tình hình thể cộng thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên thuần túy nữa), tất nhiên với điều
kiện giá tài sản về trung bình sẽ tiến triển giống với giá tiêu dùng trong giai đoạn dài
8
.
Tóm lại: qui luật β = s/g không giải thích được những sốc ngắn hạn tác động lên tỉ số
vốn/thu nhập (cũng như không giải được nguyên nhân của các cuộc Chiến tranh thế giới
hay cuộc khủng hoảng năm 1929 - những sự kiện thể được xem như các sốc với biên độ
cực lớn), nhưng cho phép hiểu được đâu mức cân bằng khả tỉ số vốn/thu nhập sẽ
tiến tới trong giai đoạn dài, b lại phía sau các sốc và các cuộc khủng hoảng.
Sự quay trở lại của đồng vốn tại các nước giàu k từ những
năm 1970
Để minh họa cho sự khác nhau giữa các biến động ngắn hạn và các biến động dài hạn của tỉ số
vốn/thu nhập, ta hãy xem xét tiến trình hàng năm của tỉ số y tại các nước giàu hay gặp trong
giai đoạn từ năm 1970 đến năm 2010 - giai đoạn ta các nguồn số liệu đồng nhất và đáng
7
12% thu nhập tương đương với 12/6 = 2% vốn. Tổng quát hơn, nếu tỉ lệ tiết kiệm bằng s và tỉ số vốn/thu
nhập bằng β, thì ta suy ra dự trữ vốn sẽ tăng theo tỉ lệ s/β.
8
Phương trình toán học đẳng miêu tả sự vận động của tỉ số vốn/thu nhập β và sự hội tụ v β = s/g được
trình bày trong phụ lục thuật.
22l5.com 201
tin cậy cho một số lượng lớn các nước. Ta hãy bắt đầu bằng tỉ số giữa vốn nhân và thu nhập
quốc gia. Tiến trình của được trình bày trong biểu đồ G5.3 cho tám nước giàu hay gặp - xếp
theo thứ tự SPTTN giảm dần: Mĩ, Nhật, Đức, Pháp, Liên hiệp Anh, Ý, Canada và Úc.
Graphique 5.3. Le capital privé dans les pays riches, 1970-2010
100%
200%
300%
400%
500%
600%
700%
800%
1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Lecture: le capital privé représente entre 2 et 3,5 années de revenu national dans les pays riches en 1970, et entre 4
et 7 années de revenu national en 2010. Sources et séries: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Valeur du capital privé, en % du revenu national
Etats-Unis Japon
Allemagne France
Royaume-Uni Italie
Canada Australie
Biểu đồ G5.3: Vốn nhân tại những nước giàu giai đoạn 1970-2010
Trái với biểu đồ G5.1-G5.2 và các biểu đồ trong những chương trước (chúng biểu diễn các
y số theo thập kỉ nhằm giúp tập trung chú ý vào các xu hướng dài hạn), trước tiên ta thấy
trong biểu đồ G5.3 rằng tỉ số vốn/thu nhập tại tất cả các nước đều biến động không ngừng trong
các giai đoạn rất ngắn. Sự lên xuống trồi sụt đó bắt nguồn từ việc giá tài sản, bất động
sản (nhà và bất động sản nghề nghiệp) hay tài sản tài chính (trong đó phiếu góp vốn), đều
biến động rất thất thường. Luôn rất khó để định giá chính xác đồng vốn, một mặt vì, khách
quan nói, dự báo nhu cầu tương lai đối với các hàng hóa và dịch vụ một doanh nghiệp
hoặc một bất động sản sinh ra cực phức tạp - thế nên cũng rất khó để xác định dòng tiền
lợi nhuận, lợi nhuận trên vốn góp, tiền phí, tiền thuê nhà v.v các tài sản trên mang lại trong
tương lai; và mặt khác giá trị hiện tại của một tòa nhà hay một công ti không chỉ phụ thuộc
202 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
vào các thành tố bản nói trên, còn vào giá ta hi vọng sẽ thu được nếu cần bán các tài
sản này, nghĩa vào sự tiên đoán giá trị thêm hay giá trị bớt của các tài sản đó.
Thêm nữa sự tiên đoán giá cả tương lai của một tài sản nhất định lại phụ thuộc vào sự ưa
chuộng chung của mọi người đối với tài sản đó. Điều này thể tự nhiên y ra các hiện tượng
tin tưởng người ta gọi “tự hiện thực hóa”: một khi người ta hi vọng bán lại một loại
hàng hóa nào đó với giá cao hơn giá đã mua, thì trên c độ nhân rất hợp khi người ta sẵn
sàng trả giá cao hơn hẳn giá trị bản của tài sản đang xét (mà bản thân giá trị bản cũng
rất không chắc chắn rồi) và hùa theo sự hưng phấn tập thể (dù sự hưng phấn đó quá trớn
thế nào đi nữa). Chính lẽ đó các bong bóng đầu vốn bất động sản và vốn chứng khoán
cũng xưa như bản thân đồng vốn vậy; và chúng không thể tách rời với lịch sử đồng vốn.
Hẳn bạn đọc vẫn còn nhớ bong bóng Nhật Bản năm 1990 - thể coi bong bóng ngoạn
mục nhất trong giai đoạn 1970-2010 (xem biểu đồ G5.3). Trong những năm 1980, giá trị tài sản
nhân tại Nhật bay lên tận y xanh, từ suýt soát hơn bốn năm thu nhập quốc gia vào đầu
thập kỉ lên gần bảy năm vào cuối thập kỉ
9
. ràng sự trương phồng quá cỡ và cực nhanh
y phần nhân tạo: giá trị vốn nhân đã xuống mạnh vào đầu những năm 1990, rồi ổn định
quanh mức sáu năm thu nhập quốc gia k từ giữa những năm 1990.
Ta sẽ không dựng lại quá trình lịch sử của rất nhiều bong bóng bất động sản và chứng khoán
đã hình thành rồi xẹp đi kể từ những năm 1970 tại các nước giàu, cũng không dám liều lĩnh dự
đoán các bong bóng trong tương lai (ta không khả năng làm điều đó). Nhưng chẳng hạn ta
thể dẫn ra điều chỉnh giá bất động sản tại Ý năm 1994-1995, và v bong bóng Internet
năm 2000-2001 - đã làm tỉ số vốn/thu nhập xuống rất nét tại và tại Liên hiệp Anh (tuy
thế so với sự giảm sút tại Nhật xảy ra trước đó mười năm, tỉ số này tại và Anh đã xuống
ít hơn rất nhiều). Ta cũng thể dẫn ra sự bùng nổ của bất động sản và chứng khoán từ
những năm 2000 kéo dài đến tận năm 2007, rồi sau đó giá chứng khoán đã giảm mạnh nhân cuộc
suy thoái năm 2008-2009. Trong vòng hai năm, tài sản nhân của đã giảm từ năm năm
xuống bốn năm thu nhập quốc gia, tức cùng độ lớn với điều chỉnh giá cả tại Nhật năm
1991-1992. Tại các nước khác, nhất các nước Châu Âu, sự điều chỉnh giá cả nói trên yếu
hơn rệt, thậm c không tồn tại: tại Liên hiệp Anh, tại Pháp, tại Ý, giá tài sản, nhất bất
động sản, đã chững lại phút chốc vào năm 2008 rồi lại tiếp tục tăng lên ngay từ năm 2009-2010,
9
người dich. Ý nói thập kỉ 1980.
22l5.com 203
do đó tài sản nhân vào đầu những năm 2010 đã đạt cùng mức với năm 2007, thậm c còn
cao hơn chút ít.
Điểm quan trọng ta muốn nhấn mạnh là: ngoài những lên xuống trồi sụt và không dự
đoán được của giá cả ngắn hạn (biên độ của những biến động này vẻ đang tăng lên trong
những thập kỉ gần đây - ta sẽ thấy trong phần sau điều này thể liên quan đến sự tăng tiến
của tỉ số vốn/thu nhập tiềm năng), đúng thật một xu hướng dài hạn xuất hiện tại toàn b
các nước giàu trong giai đoạn 1970-2010 (xem biểu đồ G5.3). Vào đầu những năm 1970, tổng giá
trị tài sản nhân trừ đi nợ trong khoảng từ hai đến ba năm rưỡi thu nhập quốc gia tại tất cả
các nước giàu, trên tất cả các châu lục
10
. Bốn mươi năm sau, vào đầu những năm 2010, tài sản
nhân chiếm từ bốn đến bảy năm thu nhập quốc gia tại tất cả các nước được nghiên cứu
11
.
Tiến trình chung rất ràng: không tính các bong bóng tài sản, ta đang chứng kiến sự quay trở
lại của vốn nhân tại các nước giàu kể từ những năm 1970, hay đúng hơn ta đang chứng
kiến sự nổi lên của một ch nghĩa mới - ch nghĩa vốn coi trọng tài sản.
Tiến trình tính cấu trúc này thể được giải thích bằng ba loại nhân tố khác nhau; ba
loại nhân tố đó tích lũy và b sung cho nhau, và khiến hiện tượng kể trên biên độ rất lớn.
Nhân tố quan trọng nhất về dài hạn sự tăng trưởng chậm đi, nhất tăng trưởng dân số. Việc
y cùng với tỉ lệ tiết kiệm được giữ vững mức cao, tự khắc dẫn đến việc tỉ số vốn/thu nhập
một cách cấu trúc sẽ xu hướng tăng lên, thông qua qui luật β = s/g. chế này lực kéo
áp đảo trong giai đoạn dài, nhưng ta vẫn phải nhắc tới hai nhân tố còn lại. Hai nhân tố này đã
góp phần làm các hiệu ứng mạnh lên đáng kể trong những thập kỉ gần đây: nhân tố thứ nhất
phong trào nhân hóa tài sản và sự chuyển đổi dần dần của cải công cộng thành của cải
nhân kể từ những năm 1970-1980; và nhân tố thứ hai hiện tượng rượt đuổi dài hạn của giá
bất động sản và chứng khoán (các giá cả này đã tăng nhanh trong những năm 1980-1990, trong
hoàn cảnh chính trị nhìn chung rất thuận lợi cho tài sản nhân so với những thập kỉ ngay
sau các cuộc Chiến tranh thế giới).
10
Từ 2,2 năm tại Đức đến 3,4 năm tại vào năm 1970. Xem các dãy số chi tiết trong bảng S5.1 trên mạng.
11
Từ 4,1 năm tại Đức và đến 6,1 tại Nhật và 6,8 tại Ý vào năm 2010. Các giá trị nói trên mức trung
bình hàng năm (ví dụ, giá trị cho năm 2010 mức tài sản trung bình ước lượng từ ngày 1 tháng 1 năm 2010
đến ngày 1 tháng 1 năm 2011). Những ước lượng đầu tiên cho năm 2012-2013 cũng cho ra các giá trị không khác
mấy. Xem phụ lục thuật.
204 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
Không tính các bong bóng tài sản: tăng trưởng thấp, tiết
kiệm nhiều
Ta hãy bắt đầu bằng chế đầu tiên. chế này được y dựng trên sự tăng trưởng chậm, sự
giữ vững mức tiết kiệm cao, và qui luật động β = s/g. Ta trình y trong bảng T.5.1 giá trị
trung bình của tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ tiết kiệm nhân tại tám nước giàu hay gặp trong giai
đoạn 1970-2010. Như đã nhắc tới trong chương 2, tỉ lệ tăng trưởng của thu nhập quốc gia theo
đầu người (hoặc tỉ lệ tăng trưởng của sản lượng trong nước theo đầu người - hai độ lớn gần như
bằng nhau) tại các nước giàu cực gần nhau trong những thập kỉ gần đây. Nếu ta so sánh
trên vài năm, cách biệt thể khá lớn, và thường dũa nhọn sự ghen tị hay niềm tự hào quốc
gia. Nhưng, tính trung bình trong giai đoạn dài hơn, sự thật tất cả các nước giàu đều tăng
trưởng với xấp xỉ cùng nhịp độ. Từ năm 1970 đến năm 2010, tỉ lệ tăng trưởng hàng năm trung
bình của thu nhập quốc gia theo đầu người đạt trong khoảng từ 1,6% đến 2,0% (thông thường
từ 1,7% đến 1,9%) tại tám nước phát triển hay gặp. Nếu ta tính tới sự không hoàn hảo của
các phép đo thống hiện (đặc biệt về các chỉ số giá cả), không thể nói chắc những cách
biệt nhỏ như vy ý nghĩa thống kê nào hay không
12
.
thế nào đi nữa, các cách biệt trên rất nhỏ so với cách biệt về tỉ lệ tăng trưởng dân
số. Trong giai đoạn 1970-2010, tỉ lệ tăng trưởng dân số dưới 0,5% một năm tại Châu Âu và
tại Nhật (trong giai đoạn 1990-2010, tỉ lệ này lẽ gần 0% hơn, thậm chí âm nhẹ tại Nhật),
trong khi đó vào khoảng từ 1,0% đến 1,5% một năm tại Mĩ, Canada và Úc (xem bảng T.5.1).
Chính thế tỉ lệ tăng trưởng tổng thể trong giai đoạn 1970-2010 tại và tại các nước
mới
13
cao hơn so với Châu Âu và Nhật: xung quanh 3% một năm cho các nước thuộc nhóm
thứ nhất (thậm chí hơn thế một chút); suýt soát 2% một năm cho nhóm thứ hai (thậm chí vừa
vặn 1,5% trong giai đoạn gần đây). Những khác biệt như vy vẻ hạn chế, nhưng khi tích
tụ theo thời gian trong giai đoạn dài, sẽ dẫn đến những cách biệt thực tế rất đáng kể, như
ta đã thấy trong chương 2. Điểm mới ta muốn nhấn mạnh đây những khác biệt về tỉ
lệ tăng trưởng như trên thể gây ra những hiệu ứng rất mạnh lên sự tích lũy vốn dài hạn, và
nhiều phần giải thích tại sao tỉ số vốn/thu nhập tại Châu Âu và tại Nhật một cách cấu trúc lại
12
Nói riêng ta chỉ cần thay đổi chỉ số giá cả (có nhiều chỉ số giá cả cạnh tranh nhau, và không chỉ số nào
hoàn hảo) xếp hạng giữa các nước bị đảo ngược. Xem phụ lục thuật.
13
người dịch. Nguyên bản: pays neufs. Ý nói các nước thuộc Thế giới Mới.
22l5.com 205
Etats-Unis
2,8%
1,0% 1,8%
7,7%
Japon
2,5%
0,5% 2,0%
14,6%
Allemagne
2,0%
0,2% 1,8%
12,2%
France
2,2%
0,5% 1,7%
11,1%
Royaume-Uni
2,2%
0,3% 1,9%
7,3%
Italie
1,9%
0,3% 1,6%
15,0%
Canada
2,8%
1,1% 1,7%
12,1%
Australie
3,2%
1,4% 1,7%
9,9%
Tableau 5.1. Taux de croissance et taux d'épargne dans les pays riches, 1970-2010
Sources: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c
Taux de
croissance du
revenu national
par habitant
Epargne privée
(nette de la dépréciation)
(en % du revenu
national)
Taux de croissance
du revenu national
Taux de
croissance de la
population
Lecture: les taux d'épargne et de croissance démographique varient fortement au sein des pays riches; les
taux de croissance du revenu national par habitant varient beaucoup moins.
Bảng T.5.1: Tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ tiết kiệm tại các nước giàu giai đoạn 1970-2010
206 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
cao hơn tỉ số này tại Châu Mĩ.
Nếu giờ ta xem xét tỉ lệ tiết kiệm trung bình trong giai đoạn 1970-2010, ta cũng thấy
thay đổi rất nhiều tại các nước khác nhau: nói chung tỉ lệ tiết kiệm nhân mức xung quanh
10%-12% thu nhập quốc gia, nhưng xuống còn 7%-8% tại và tại Liên hiệp Anh, và lên đến
14%-15% tại Nhật và tại Ý (xem bảng T.5.1). Khoảng cách đó trở thành các cách biệt đáng kể
khi được tích tụ suốt 40 năm. Ta cũng thấy các nước tiết kiệm nhiều nhất thường các nước
dân số ngưng trệ và già đi nhanh nhất (có thể xuất phát từ mục đích tiết kiệm để nghỉ hưu
hoặc chuyển giao lại tài sản), nhưng mối liên hệ đó còn xa mới tính hệ thống. Như ta vừa nói
đến trên, rất nhiều do khiến người ta quyết định tiết kiệm nhiều hay ít, và không
đáng ngạc nhiên khi quyết định này bị chi phối phần nào bởi các nhân tố và các khác biệt đa
dạng giữa các quốc gia (gắn liền với văn hóa, với cảm nhận về tương lai và với lịch sử riêng biệt
của mỗi nước); hiện tượng đó giống với các lựa chọn rốt cuộc sẽ quyết định tỉ lệ tăng trưởng dân
số: đó chính sách nhập và sinh nở.
Nếu cùng kết hợp xem xét tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ tiết kiệm, ta thể dễ dàng giải thích tại
sao các nước khác nhau tích lũy những lượng vốn rất khác nhau, và tại sao tỉ lệ vốn/thu nhập
đã tăng lên rất nhanh kể từ năm 1970. Trường hợp đặc biệt ràng Nhật: với tỉ lệ tiết kiệm
gần 15% một năm và tỉ lệ tăng trưởng suýt soát cao hơn 2%, thật logic nước này về dài
hạn đã tích lũy khối dự trữ vốn vào khoảng sáu-bảy năm thu nhập quốc gia. Đó hệ quả
tính tự động của qui luật tích lũy động β = s/g. Cũng giống như vy, không ngạc nhiên lắm khi
nước Mĩ, nước tiết kiệm ít hơn Nhật rất nhiều và tăng trưởng nhanh hơn Nhật, tỉ số vốn/thu
nhập thấp hơn hẳn.
Nói chung, nếu ta so sánh mức tài sản nhân năm 2010 như được dự báo bởi dòng tiền tiết
kiệm từ năm 1970 đến năm 2010 (cộng với tài sản ban đầu năm 1970) và mức tài sản nhân
như quán sát thấy trong thực tế vào năm 2010, ta thấy rằng chúng rất gần nhau tại phần lớn
các nước
14
. Tuy nhiên chúng không tương đương một cách hoàn hảo; điều này chỉ ra rằng những
nhân tố khác cũng đóng vai trò rất quan trọng. dụ, ta sẽ quay lại bàn về trường hợp Liên
hiệp Anh, nước dòng tiền tiết kiệm v ràng không đủ để giải thích cho sự tăng lên
rất mạnh của tài sản nhân trong giai đoạn y.
Nhưng ngoài trường hợp các nước biệt, kết quả thu được về tổng thể rất nhất quán:
14
Xem biểu đồ S5.1 (có trên mạng).
22l5.com 207
thể giải thích được phần chính yếu của sự tích lũy vốn nhân tại các nước giàu từ năm 1970
đến năm 2010 bởi khối tiền tiết kiệm quan sát được trong giai đoạn đang xét (cộng với vốn ban
đầu), không nhất thiết phải giả sử giá cả tương đối của các tài sản đã tăng mạnh một cách
cấu trúc. Nói cách khác, những biến động - bất kể lên hay xuống - của giá bất động sản và chứng
khoán, vẻ luôn áp đảo trong giai đoạn ngắn hay thậm chí giai đoạn trung bình, nhưng về dài
hạn, chúng xu hướng trừ lẫn nhau và các hiệu ứng khối thường thắng thế.
Trường hợp nước Nhật một lần nữa rất nhiều thứ đáng bàn. Nếu muốn hiểu tại sao tỉ
số vốn/thu nhập đã tăng cao khủng khiếp trong những năm 1980 rồi xuống rất mạnh vào đầu
những năm 1990, thì hiển nhiên hiện tượng nổi trội giải cho việc đó sự hình thành rồi nổ
v của bong bóng bất động sản và chứng khoán. Nhưng nếu muốn hiểu tiến trình trong toàn b
giai đoạn 1970-2010, thì ràng hiệu ứng khối đã thắng thế hiệu ứng giá cả: việc tài sản
nhân của Nhật tăng từ ba năm thu nhập quốc gia vào năm 1970 lên sáu năm vào năm 2010 gần
như được dự đoán một cách hoàn hảo bởi dòng tiền tiết kiệm của nước này trong giai đoạn nói
trên
15
.
Hai thành phần của tiết kiệm nhân
Để cho đầy đủ, ta phải nói hơn tiết kiệm nhân thực ra gồm hai thành phần: thành phần
thứ nhất tiết kiệm được trực tiếp thực hiện bởi các nhân (đó phần trong thu nhập của
các hộ gia đình chưa bị tiêu dùng ngay lập tức); và thành phần thứ hai tiết kiệm do các doanh
nghiệp thực hiện cho các nhân sở hữu các doanh nghiệp đó, một cách trực tiếp (trường hợp
doanh nghiệp nhân) hay gián tiếp (thông qua các đầu tài chính). Thành phần thứ hai này
tương ứng với phần lợi nhuận được các doanh nghiệp đầu quay vòng (còn được gọi “lợi
nhuận không phân phối” hay retained earnings) và thể chiếm đến một nửa tổng tiết kiệm
nhân tại một số nước (xem bảng T.5.2).
Nếu ta bỏ qua thành phần thứ hai này và chỉ xét thành phần tiết kiệm của các hộ gia đình
theo nghĩa chặt, ta sẽ đi đến kết luận tại tất cả các nước, chỉ tính tới dòng tiền tiết kiệm
15
Chính xác hơn: theo các dãy số thực tế, tỉ số vốn/thu nhập quốc gia đã tăng từ 299% vào năm 1970 lên 601%
vào năm 2010, trong khi nếu dựa theo dòng tiền tiết kiệm được tích lũy trong giai đoạn y, sẽ tăng từ 299%
lên 616%. Sai số 15% trên mức tăng khoảng 300% của thu nhập quốc gia, tức suýt soát 5%: dòng tiền tiết
kiệm giải thích 95% cho sự tăng lên của tỉ số vốn/thu nhập tại Nhật từ năm 1970 đến năm 2010. Các phép tính
chi tiết cho tất cả các nước được đăng trên mạng.
208 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
4,6% 3,1%
60% 40%
6,8% 7,8%
47% 53%
9,4% 2,8%
77% 23%
9,0% 2,1%
81% 19%
2,8% 4,6%
38% 62%
14,6% 0,4%
97% 3%
7,2% 4,9%
60%
40%
5,9% 3,9%
60%
40%
Sources: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c
Italie 15,0%
Royaume-Uni
Australie 9,9%
12,1%
7,4%
Lecture: une part importante (et variable suivant les pays) de l'épargne privée provient des
profits non distribués des entreprises.
France 11,1%
dont épargne nette
des ménages
Canada
14,6%
Allemagne 12,2%
Tableau 5.2. L'épargne privée dans les pays riches, 1970-2010
Etats-Unis 7,7%
Japon
dont épargne nette
des entreprises
(profits
réinvestis nets)
Epargne privée
(en % du revenu
national)
Bảng T.5.2: Tiết kiệm nhân tại các nước giàu giai đoạn 1970-2010
ràng không đủ để giải thích sự tăng lên của tài sản nhân, và sẽ ch yếu được giải thích
bằng sự tăng tính cấu trúc của giá cả tương đối của các loại tài sản, nhất giá phiếu góp
vốn. Một kết luận như vy thể chính xác dưới c độ kế toán, nhưng rất giả tạo dưới c độ
kinh tế: đúng v dài hạn giá phiếu góp vốn xu hướng tăng nhanh hơn giá tiêu dùng, nhưng
điều đó ch yếu được giải thích bằng việc phần lợi nhuận được đầu quay vòng cho phép các
doanh nghiệp đang xét tăng kích cỡ và tăng vốn (đây một hiệu ứng khối chứ không phải
một hiệu ứng giá cả). Một khi ta tính gộp phần lợi nhuận được đầu quay vòng vào tiết kiệm
nhân, hiệu ứng giá cả nói trên phần lớn sẽ biến mất.
Trên thực tế, dưới c độ những người giữ phiếu góp vốn, lợi nhuận được trả ngay dưới dạng
lợi nhuận trên vốn góp thường bị đánh thuế nặng hơn lợi nhuận được đầu quay vòng: đối với
những người sở hữu vốn, lẽ sẽ hay hơn khi họ chỉ nhận một phần hạn chế dưới dạng lợi nhuận
trên vốn góp (dựa theo nhu cầu tiêu dùng ngay lập tức), và để phần còn lại được tích lũy và đầu
quay vòng vào chính doanh nghiệp hay các chi nhánh của nó, rồi sau đó chỉ việc bán lại một
22l5.com 209
số phiếu góp vốn và b túi phần giá trị thêm (nhìn chung bị đánh thuế thấp hơn lợi nhuận trên
vốn góp
16
). Những khác biệt về trọng lượng của phần lợi nhuận được đầu quay vòng trong
tổng tiết kiệm nhân giữa các nước ch yếu được giải thích qua các khác biệt trong hệ thống
luật pháp và thuế của từng nước, và thể hiện sự khác nhau tính chất kế toán nhiều hơn
tính chất thực sự kinh tế. Trong điều kiện như vy, phương pháp hợp nhất coi lợi nhuận
được đầu quay vòng vào các doanh nghiệp như một khoản tiết kiệm được thực hiện cho lợi
ích của ch sở hữu, tức như một thành phần của tiết kiệm nhân.
Ta cũng cần nói khái niệm tiết kiệm được dùng trong qui luật động β = s/g tiết
kiệm nét (tức trừ đi sự xuống giá của vốn), nghĩa tiết kiệm mới thật sự thu được sau khi
lấy tiết kiệm thô trừ đi phần dùng để lại sự hao mòn của nhà xưởng hoặc thiết bị (sửa một
lỗ thủng trên mái, một đường ống, thay thế đồ vật đã cũ: xe hơi, máy tính, y c, v.v). Sự
khác biệt
17
rất lớn, bởi lẽ tại các nền kinh tế phát triển, sự xuống giá của vốn hàng năm vào
khoảng 10%-15% thu nhập quốc gia, tức hút hết gần một nửa tiết kiệm thô (nói chung lên
tầm 25%-30% thu nhập quốc gia), nên tiết kiệm nét chỉ còn khoảng 10%-15% thu nhập quốc gia
(xem bảng T.5.3). Trong đó phần lớn lợi nhuận thô không phân phối thường được dùng để duy
tu bảo dưỡng các nhà xưởng và thiết bị, và trường hợp thường gặp số
18
dùng để chi trả
các khoản đầu mới rất thấp - vài phần trăm thu nhập quốc gia nhiều nhất, khi còn
âm nếu lợi nhuận thô không phân phối thấp hơn sự xuống giá của vốn. Hiển nhiên, chỉ tiết
kiệm nét cho phép làm tăng dự trữ vốn: lại sự xuống giá của vốn đơn thuần chỉ giúp tránh
được việc dự trữ vốn giảm đi thôi
19
.
16
Khi một doanh nghiệp mua lại phiếu góp vốn của mình, sẽ giúp cho những người giữ phiếu góp vốn nhận
được giá trị thêm. Phần giá trị thêm này nói chung bị đánh thuế ít hơn so với việc nếu doanh nghiệp dùng cùng
một số tiền như vậy để trả dưới dạng lợi nhuận trên vốn góp. Tình hình cũng giống như vậy khi một doanh nghiệp
mua phiếu góp vốn của các doanh nghiệp khác, và tính tổng thể khu vực doanh nghiệp nhờ vào các vụ mua bán
giấy tờ tài chính đã giúp khu vực nhân nhận được giá trị thêm.
17
người dịch. Ý nói sự khác biệt giữa tiết kiệm nét và tiết kiệm thô.
18
người dịch. Ý nói phần lợi nhuận thô không phân phối còn lại sau khi trừ đi phần tiền dùng để lại sự
xuống giá của vốn.
19
Ta thể biểu diễn qui luật β = s/g với s hiệu tỉ lệ tiết kiệm thô (chứ không phải tiết kiệm nét): trong
trường hợp đó qui luật này trở thành β = s/(g + δ) (δ hiệu tỉ lệ xuống giá của vốn, biểu diễn theo phần trăm
của tổng dự trữ vốn). dụ, nếu tỉ lệ tiết kiệm thô s = 24%, tỉ lệ xuống giá của vốn δ = 2% tổng dự trữ vốn,
thì với tỉ lệ tăng trưởng g = 2%, ta thu được tỉ số vốn/thu nhập β = s/(g + δ) = 600%. Xem phụ lục thuật.
210 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
Lecture: une part importante de l'épargne brute (généralement autour de la moitié) correspond
à la dépréciation du capital et sert donc simplement à réparer ou remplacer le capital usagé.
Table 5.3. Epargne brute et nette dans les pays riches, 1970-2010
Etats-Unis 18,8%
Japon
Egal: Epargne privée
nette
Epargne privée brute
(% revenu national)
7,7%
14,6%
France 22,0%
Moins: Dépréciation
du capital
Canada
33,4%
Allemagne 28,5%
11,1%
18,9%
16,2%
Sources: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c
Italie 30,1%
Royaume-Uni
Australie 25,1%
24,5%
19,7%
15,2%
12,1%
10,9%
12,3%
15,1%
12,4%
9,9%
12,2%
11,1%
7,3%
15,0%
Bảng T.5.3: Tiết kiệm thô và tiết kiệm nét tại các nước giàu giai đoạn 1970-2010
22l5.com 211
Đồ dùng lâu dài và đồ vật giá trị
Cuối cùng ta để ý các tài sản bền vững (đồ đạc, thiết bị gia đình, xe hơi, v.v) do các hộ gia
đình mua sắm đã không được tính vào tiết kiệm nhân - vy cũng không được tính vào tài
sản nhân. Việc này do ta đã tuân theo các chuẩn kế toán quốc tế, trong đó đồ dùng lâu
dài của các hộ gia đình được xem như một khoản tiêu dùng tức thời (cùng một tài sản như vy
nếu được các doanh nghiệp mua sẽ được xem như một khoản đầu với mức xuống giá hàng
năm rất cao). Nhưng điều này không ảnh hưởng lắm đến ch đề nghiên cứu của ta, bởi lẽ các
đồ dùng lâu dài luôn chiếm khối lượng khá nhỏ so với toàn b tài sản; hơn nữa giá trị của khối
đồ dùng lâu dài không thay đổi mấy theo thời gian: tại tất cả các nước giàu, các ước lượng hiện
chỉ ra rằng tổng giá trị đồ dùng lâu dài của các hộ gia đình nói chung trong khoảng từ 30%
đến 50% thu nhập quốc gia trong suốt giai đoạn 1970-2010, và không lên xuống theo xu hướng
ràng nào cả.
Nói cách khác, mỗi người sở hữu lượng đồ đạc, tủ lạnh, xe hơi v.v tương đương trung bình từ
một phần ba đến một nửa năm thu nhập, tức từ 10000 euro đến 15000 euro với mức thu nhập
quốc gia theo đầu người khoảng 30000 euro vào đầu những năm 2010. Khoản tiền y không hề
nhỏ, và như ta thấy trong phần thứ ba của sách, tương đương với phần lớn của cải của một
b phận dân lớn. Nhưng so với toàn b tài sản nhân (không tính đồ dùng lâu dài) đạt mức
năm-sáu năm thu nhập quốc gia (tức khoảng 150000 euro-200000 euro mỗi người; trong đó
một nửa bất động sản, nửa kia tài sản tài chính nét - tiền gửi ngân hàng, phiếu góp vốn,
giấy ghi nợ, đầu các loại v.v, trừ đi nợ - và các tài sản nghề nghiệp), chỉ tương đương với
một phần b sung nhỏ. Cụ thể, nếu ta tính các đồ dùng lâu dài vào tài sản nhân, thì đơn
giản chỉ nâng các đường biểu diễn trong biểu đồ G5.3 lên khoảng 30%-50% thu nhập quốc gia,
không ảnh hưởng nhiều đến tiến trình chung
20
.
Nhân tiện ta cũng lưu ý ngoài bất động sản và tài sản nghề nghiệp, tài sản phi tài chính
duy nhất được tính đến trong các chuẩn mực quốc tế về kế toán quốc gia (trong sách này ta
20
Nếu tỉ lệ tăng trưởng g = 2%, thì phải khoản chi tiêu nét cho đồ dùng lâu dài với tỉ lệ s = 1% thu nhập
quốc gia một năm để tích lũy được khối dự trữ đồ dùng lâu dài tương đương với β = s/g = 50% thu nhập quốc
gia. Tuy nhiên do rất hay phải thay mới các đồ dùng lâu dài, nên chi tiêu thô sẽ lớn hơn chi tiêu nét rệt.
dụ, nếu phải thay mới trung bình năm năm một lần, thì cần khoản chi tiêu thô cho đồ dùng lâu dài mức
10% thu nhập quốc gia một năm chỉ để thay mới các tài sản đã cũ, và 11% một năm để khoản chi tiêu nét
mức 1% và sinh ra khối dự trữ đồ dùng lâu dài cân bằng mức 50% thu nhập quốc gia (vẫn giữ mức tăng trưởng
g = 2%). Xem phụ lục thuật.
212 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
đã tuân theo các chuẩn mực đó nhằm bảo đảm sự thống nhất trong các so sánh về tài sản
nhân và tài sản quốc gia giữa các nước khác nhau) các “đồ dùng giá trị”, nghĩa các đồ
vật và kim loại quí (vàng, bạc, đồ trang sức, tác phẩm nghệ thuật, v.v), do các hộ gia đình sở
hữu thuần túy để lưu giữ giá trị kinh tế (hay giá trị thẩm mĩ), và trên nguyên tắc chúng không
xuống cấp - hoặc xuống cấp rất ít - theo thời gian. Tuy nhiên các đồ dùng giá trị này được
ước lượng giá trị thấp hơn hẳn các đồ dùng lâu dài (hiện nay trong khoảng từ 5% đến 10%
thu nhập quốc gia tùy từng nước, tức từ 1500 euro đến 3000 euro một người với mức thu nhập
quốc gia trung bình 30000), và ảnh hưởng của chúng lên tổng tài sản nhân tương đối phụ,
ngay cả khi giá vàng trên thị trường gần đây đã tăng lên
21
.
Rất thú vị là, theo các ước lượng hiện có, các số độ lớn nói trên vẻ không thay đổi nhiều
trong giai đoạn dài. Các đồ dùng lâu dài hiện nay được ước lượng vào khoảng 30%-50% thu nhập
quốc gia, tại thế kỉ 19 cũng như tại thế kỉ 20. Kết quả cũng tương tự như vy khi ta nghiên
cứu các ước lượng về tài sản quốc gia tại Liên hiệp Anh quanh năm 1700 do Gregory King thực
hiện: tổng giá trị đồ đạc, đĩa ăn, v.v theo King tính toán tương đương với khoảng 30% thu nhập
quốc gia. Hơn nữa, các đồ dùng giá trị và đồ vật quí v xu hướng giảm xuống trong giai
đoạn dài. Theo Gregory King, tổng giá trị của chúng - bao gồm cả tiền kim loại - đạt 25%-30%
thu nhập quốc gia quanh năm 1700. Chúng đạt từ 10%-15% thu nhập quốc gia vào cuối thế kỉ
19 và đầu thế kỉ 20, và xuống còn 5%-10% hiện nay. Trong mọi trường hợp đó các khoản tiền
tương đối hạn chế so với tổng tài sản được tích lũy trong Vương quốc
22
(khoảng bảy năm thu
nhập quốc gia, ch yếu dưới dạng đất nông nghiệp, nhà và các loại vốn khác - cửa hàng, xưởng
sản xuất, kho bãi, gia súc, tàu thuyền, v.v). Khám phá này không khỏi làm King tròn mắt reo
mừng
23
.
21
Tổng giá trị của dự trữ vàng toàn cầu về dài hạn đã giảm đi (2%-3% tổng tài sản nhân tại thế kỉ 19, dưới
0,5% cuối thế kỉ 20), nhưng xu hướng tăng lên trong các cuộc khủng hoảng (vàng giá trị lánh nạn), và hiện
nay đạt mức 1,5% tổng tài sản nhân, trong đó khoảng một phần năm thuộc sở hữu của các ngân hàng trung
ương. Đó những biến động ngoạn mục, tuy nhiên vẫn thứ yếu so với toàn b dự trữ vốn. Xem phụ lục
thuật.
22
người dịch. Ý nói Vương quốc Anh.
23
Mặc không khác mấy nhưng để thống nhất chúng tôi đã dùng cùng qui ước cho các dãy số lịch sử được
trình bày trong chương 3-4 và cho các y số vừa được trình bày cho giai đoạn 1970-2010: đồ dùng lâu dài được
loại ra khỏi tài sản, trong khi đồ dùng giá trị được tính vào mục “các loại vốn trong nước khác”.
22l5.com 213
Vốn nhân biểu diễn theo số năm thu nhập sẵn dùng
Ta cũng cần nhấn mạnh tỉ số vốn/thu nhập tại các nước giàu trong những năm 2000-2010
thể sẽ đạt mức cao hơn nữa - chắc hẳn cao chưa từng thấy trong lịch sử - nếu ta biểu diễn
tổng tài sản nhân theo số năm thu nhập sẵn dùng, chứ không theo số năm thu nhập quốc gia
như ta đã làm từ đầu sách đến giờ. Vấn đề vỏ ngoài thuật này xứng đáng vài lời giải thích
cho ràng.
Thu nhập sẵn dùng của các hộ gia đình, hay ngắn gọn “thu nhập sẵn dùng”, đo lường (như
theo nghĩa của từ y) khoản thu nhập tiền tệ các hộ gia đình trực tiếp được tại một
nước nhất định. Theo định nghĩa, để chuyển từ thu nhập quốc gia sang thu nhập sẵn dùng, ta
cần phải trừ đi tất cả các loại thuế và tiền đóng góp, và cộng các khoản tiền chuyển vào (lương
hưu, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thu nhập tối thiểu, v.v). Cho đến đầu thế
kỉ 20, Nhà nước và các quan hành chính công cộng đóng vai trò hạn chế trong đời sống kinh
tế và hội (tổng tiền đóng góp vào khoảng 10% thu nhập quốc gia, chúng ch yếu dùng để
chi trả các quan chức năng công cộng: cảnh sát, quân đội, tòa án, đường xá, v.v), do đó thu
nhập sẵn dùng nhìn chung chiếm khoảng 90% thu nhập quốc gia. Vai trò đó đã được tăng lên
đáng kể trong thế kỉ 20, đến mức thu nhập sẵn dùng hiện nay chỉ chiếm khoảng 70%-80% thu
nhập quốc gia tại các nước giàu. Hệ quả tính học nếu ta biểu diễn tổng tài sản nhân
theo số năm thu nhập sẵn dùng (chứ không phải theo số năm thu nhập quốc gia), như một số
người thường làm, thì ta sẽ thu được tỉ số vốn/thu nhập cao hơn rệt. dụ, trong những năm
2000-2010, vốn nhân chiếm xấp xỉ từ bốn đến bảy năm thu nhập quốc gia tại các nước giàu,
nghĩa từ năm đến chín năm thu nhập sẵn dùng (xem biểu đồ G5.4).
Hai cách đo lường tỉ số giữa vốn và thu nhập trên đều hợp lí, tùy theo quan điểm của mỗi
người về vấn đề này. Tỉ số biểu diễn theo số năm thu nhập sẵn dùng tập trung vào thực tế hoàn
toàn thuần chất tiền tệ và cho phép nhấn mạnh vào biên độ của tài sản hiện nay so với thu nhập
hàng năm các hộ gia đình trực tiếp được (ví dụ thể dùng để tiết kiệm). Điều này trong
chừng mực nào đó tương ứng với thực tế cụ thể các hộ gia đình trải nghiệm trên tài khoản
ngân hàng của mình. thế ta cũng nên biết cả hai số độ lớn này. Tuy nhiên, theo định nghĩa,
cách biệt giữa thu nhập sẵn dùng và thu nhập quốc gia đo lường giá trị của các dịch vụ công
cộng các hộ gia đình được hưởng miễn phí, nhất các dịch vụ giáo dục và chăm c sức
214 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
Graphique 5.4. Le capital privé exprimé en années de revenu disponible
200%
300%
400%
500%
600%
700%
800%
900%
1000%
1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Lecture: exprimé en années de revenu disponible des ménages (soit 70-80% du revenu national), le rapport
capital/revenu apparaît plus élevé que si l'on exprime en années de revenu national.
Sources et séries : voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Valeur du capital privé, en % du revenu disponible
Etats-Unis Japon
Allemagne France
Royaume-Uni Italie
Canada Australie
Biểu đồ G5.4: Vốn nhân biểu diễn theo số năm thu nhập sẵn dùng
khỏe do các quan công quyền trực tiếp chi trả. Sự “chuyển đổi bản chất” này giá trị bằng
với sự lưu chuyển tiền tệ dùng để tính thu nhập sẵn dùng: giúp cho những người liên quan
tránh được việc phải chi những khoản đáng kể - đôi khi cao hơn hẳn - cho những nhà sản xuất
nhân dịch vụ giáo dục và chăm c sức khỏe. Bỏ qua chúng nguy làm sai lệch một số
tiến trình hay các phép so sánh giữa các nước. Chính lẽ đó theo chúng tôi biểu diễn tài sản
theo số năm thu nhập quốc gia lẽ hay hơn: điều y ứng với việc lấy quan điểm kinh tế -
chứ không phải thuần chất tiền tệ - để xem xét khái niệm thu nhập. Trong khuôn khổ cuốn sách
y, khi ta nói đến tỉ số vốn/thu nhập không chú thích nào khác, ta sẽ luôn hiểu đó tỉ
số giữa dự trữ vốn và dòng thu nhập quốc gia
24
.
24
Trong phần thứ ta sẽ quay lại bàn về vấn đề thuế, lưu chuyển và phân phối lại của cải do các quan
công quyền điều hành, và đặc biệt ảnh hưởng của lên bất bình đẳng và lên sự tích lũy cũng như phân bố
của đồng vốn.
22l5.com 215
Vấn đề v các quĩ phi lợi nhuân và các nhà sở hữu khác
Để hoàn chỉnh, nói thêm tài sản nhân bao gồm không chỉ tài sản và nợ do các nhân sở
hữu (các “hộ gia đình” theo ngôn ngữ kế toán), còn cả tài sản và nợ do các quĩ phi lợi nhuận
và các hiệp hội phi lợi nhuận khác (các “thể chế phi lợi nhuận” theo ngôn ngữ kế toán). Chỉ
các quĩ phi lợi nhuận và các hiệp hội được bao cấp ch yếu bằng tiền quyên góp của các nhân
hay bằng thu nhập từ tài sản của mình được xếp vào loại nói trên: các tổ chức sống ch yếu
bằng trợ cấp công cộng được xếp vào khu vực hành chính công cộng, và các tổ chức phụ thuộc
vào doanh thu từ bán hàng được xếp vào khu vực doanh nghiệp.
Trên thực tế, tất cả các biên giới nói trên đều dịch và bồng bềnh. đó tùy tiện trong
việc bao gồm tài sản của các quĩ phi lợi nhuận vào tổng tài sản nhân, chứ không phải dụ
vào tổng tài sản công cộng, hay xem như một loại riêng rẽ. Thực ra, đó đúng một dạng
sở hữu khá độc đáo, giữa sở hữu thuần túy nhân và sở hữu hoàn toàn công cộng. Trên thực
tế, ta xem xét tài sản của Nhà thờ qua suốt các thế kỉ, hay tài sản do Thầy thuốc không biên
giới sở hữu, hoặc của Bill and Melinda Gates Foundation, ta đều thấy đó rất nhiều đại diện
pháp đa dạng theo đuổi các mục đích chuyên biệt.
Tuy nhiên, khối tài sản nói trên tương đối hạn chế: những các đại diện pháp này sở
hữu nói chung khá ít so với tài sản do chính ch nắm giữ. Nếu ta xem xét các ước lượng hiện
tại các nước giàu trong giai đoạn 1970-2010, ta thấy phần đóng góp của các quĩ phi lợi nhuận
và các hiệp hội phi lợi nhuận khác trong tổng tài sản nhân luôn thấp hơn 10%, nhìn chung
dưới 5% (tất nhiên những khác biệt thú vị giữa các nước: suýt soát 1% tại Pháp, khoảng
3%-4% tại Nhật, và lên tới 6%-7% tổng tài sản nhân tại Mĩ) và không xu hướng rệt nào
cả. Các số liệu lịch sử hiện chỉ ra rằng tổng giá trị tài sản của Nhà thờ tại Pháp vào thế kỉ 18
đạt khoảng 7%-8% tổng tài sản nhân, tức xấp xỉ 50%-60% thu nhập quốc gia thời đó (một
phần các tài sản này đã bị tịch thu và bán trong Cách mạng Pháp, nhằm giải tán hết đống nợ
công cộng do Chế độ để lại
25
). Nói cách khác, vào thời Chế độ Cũ, khối tài sản Nhà thờ
tích lũy được trong suốt chiều dài lịch sử của lớn hơn tài sản của những quĩ phi lợi nhuận
giàu của thời đầu thế kỉ 21 này. Nhà thờ giàu hơn, nhưng rất trùng hợp hai khối tài
sản này tương đối gần nhau.
25
Xem phụ lục thuật.
216 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
Đó những khối tài sản rất đáng kể, nhất khi ta so sánh chúng với lượng tài sản mỏng
mảnh - khi thì dương, khi thì âm - thuộc sở hữu của các quan công quyền vào những thời khác
nhau. Nhưng so với tài sản nhân, vẫn khá khiêm tốn. Đặc biệt, việc cộng hay không
tài sản của các quĩ phi lợi nhuận vào tài sản của các hộ gia đình không ảnh hưởng mấy đến tiến
trình chung của tỉ số giữa vốn nhân và thu nhập quốc gia trong giai đoạn dài. Việc tính các
quĩ phi lợi nhuận vào tài sản nhân khá chính đáng còn bởi lẽ: thường không dễ vạch ra
đường biên giới ràng giữa một bên các cấu trúc pháp đa dạng - quĩ phi lợi nhuận, trust
fund
26
, v.v - hiện nay được những người gia tài lớn sử dụng để quản tài sản và đẩy mạnh
lợi ích nhân của họ (các tổ chức này theo nguyên tắc sẽ được gộp trực tiếp vào khu vực
nhân trong các sổ sách quốc gia, tất nhiên giả sử chúng được xác định đúng với bản chất của
mình), và bên kia các quĩ phi lợi nhuận và các hiệp hội với danh nghĩa phục vụ lợi ích công
cộng. Ta sẽ trở lại bàn về vấn đề tế nhị này trong phần thứ ba của sách khi ta nghiên cứu sự
vận động của bất bình đẳng tài sản toàn cầu (đặc biệt các tài sản rất lớn) tại thế kỉ 21.
Sự nhân hóa tài sản tại các nước giàu
Sự tăng lên rất mạnh của tài sản nhân tại các nước giàu từ năm 1970 đến năm 2010 - nhất
tại Châu Âu và Nhật - được giải thích thông qua qui luật β = s/g trong đó tỉ lệ tăng trưởng
chậm lại và tỉ lệ tiết kiệm cao được giữ vững. Nhưng sở hiện tượng quay trở lại của đồng
vốn nhân này đã đạt đến biên độ cao như thế, đó chế ch đạo vừa nhắc tới đã được
khuếch đại bởi hai hiệu ứng b sung nhau: một bên phong trào nhân hóa và lưu chuyển
dần dần của tài sản công cộng thành của cải nhân; bên kia hiện tượng rượt đuổi dài hạn
của giá tài sản.
y bắt đầu bằng sự nhân hóa tài sản. Trong chương trước ta đã nhắc tới sự giảm sút
mạnh trong những thập kỉ gần đây của phần đóng góp của vốn công cộng trong vốn quốc gia,
nhất tại Pháp và Đức: tại hai nước này tài sản công cộng nét đã từng chiếm đến một phần
- thậm chí một phần ba - tài sản quốc gia trong những năm 1950-1970, nhưng hiện nay chỉ còn
suýt soát vài phần trăm (tài sản công cộng chỉ vừa đủ để cân bằng nợ công cộng). Đó một
tiến trình chung xảy ra tại toàn b các nước giàu: trong tám nền kinh tế phát triển chính, ta
26
người dịch. Một dạng quĩ tài chính được lập ra chủ yếu với mục đích tài trợ và đảm bảo an toàn tài chính
cho các nhân (ví dụ con cháu trong gia đình) hoặc tổ chức (ví dụ tổ chức từ thiện, phi lợi nhuận).
22l5.com 217
thấy tỉ số giữa vốn công cộng và thu nhập quốc gia đã giảm đi đều đặn từ năm 1970 đến năm
2010, song song với việc tỉ số vốn nhân và thu nhập quốc gia tăng lên (xem biểu đồ G5.5).
Nói cách khác, sự quay trở lại của tài sản nhân phản ánh phần nào phong trào nhân hóa
tài sản quốc gia. nhiên tại tất cả các nước sự tăng lên của vốn nhân cao hơn sự giảm
xuống của vốn công cộng, do đó vốn quốc gia - đo bằng số năm thu nhập quốc gia tương đương
- đã thực sự tăng lên. Nhưng đã tăng lên chậm hơn vốn nhân - đã lên rất mạnh nhờ vào
phong trào nhân hóa tài sản nêu trên.
Trường hợp nước Ý đặc biệt ràng. Tài sản công cộng nét mức dương nhẹ trong những
năm 1970, rồi xuống âm rệt kể từ những năm 1980-1990. Việc này đến từ quá trình tích tụ
chồng chất của sự thiếu hụt ngân sách công cộng. Tính tổng thể, từ năm 1970 đến năm 2010,
của cải công cộng đã giảm tương đương với gần một năm thu nhập quốc gia. Cùng lúc đó, tài
sản nhân đã tăng từ gần hai năm rưỡi thu nhập quốc gia vào năm 1970 lên gần bảy năm vào
năm 2010, tức tăng lên khoảng bốn năm rưỡi. Nói cách khác, sự giảm sút của tài sản công
cộng tương đương từ một phần năm đến một phần sự tăng lên của tài sản nhân, tức
khá đáng kể.
Tài sản quốc gia của Ý nhiên đã tăng rất mạnh - từ khoảng hai năm rưỡi thu nhập quốc
gia vào năm 1970 lên gần sáu năm vào năm 2010 -, nhưng vẫn không mạnh bằng tài sản nhân.
Sự tăng trưởng ngoại lệ của tài sản nhân phần giả tạo, bởi lẽ gần một phần của
tương ứng với khoản nợ ngày càng lớn của một phần nước Ý nợ phần còn lại. Thay trả thuế
để làm cân bằng ngân sách công cộng, người Ý - hay ít ra những người tiền - đã cho chính
ph vay qua việc mua giấy ghi nợ Kho bạc hoặc tài sản công cộng. Điều này đã giúp họ tăng tài
sản nhân của mình; trong khi đó tài sản quốc gia vẫn không tăng cả.
Thật vậy, tại Ý, bất chấp việc rất nhiều tiền tiết kiệm nhân (khoảng 15% thu nhập quốc
gia), tiết kiệm quốc gia vẫn dưới 10% thu nhập quốc gia trong giai đoạn 1970-2010. Nói cách
khác, hơn một phần ba tiết kiệm nhân đã bị thiếu hụt ngân sách công cộng hút hết. Kịch bản
y được lặp lại tại tất cả các nước giàu, nhưng nhìn chung không cực đoan bằng trường hợp
nước Ý: tại phần lớn các nước, tiết kiệm công cộng mức âm (đầu công cộng thấp hơn thiếu
hụt ngân sách công cộng - nghĩa các quan công quyền ít tiền để đi đầu hơn khoản
tiền họ đi vay; hay nói cách khác, các khoản vay đã được dùng hết để trang trải các chi tiêu
tức thời). Tại Pháp, tại Liên hiệp Anh, tại Đức, tại Mĩ, thiếu hụt ngân sách công cộng vượt quá
218 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
Graphique 5.5. Capital privé et public dans les pays riches, 1970-2010
-100%
0%
100%
200%
300%
400%
500%
600%
700%
800%
1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Lecture: en Italie, le capital privé est passé de 240% à 680% du revenu national entre 1970 et 2010, alors que le
capital public passait de 20% à -70%. Sources et séries: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Valeur du capital, en % du revenu national
Etats-Unis Japon
Allemagne France
Royaume-Uni Italie
Canada Australie
Capital
public
Capital
privé
Biểu đồ G5.5: Vốn nhân và vốn công cộng tại các nước giàu giai đoạn 1970-2010
đầu công cộng trung bình khoảng 2%-3% thu nhập quốc gia trong giai đoạn 1970-2010, chứ
không đến hơn 6% như tại Ý (xem bảng T.5.4
27
).
Kết quả là, tại tất cả các nước giàu, sự mất tiết kiệm công cộng và xuất phát từ đó sự
giảm tài sản công cộng góp phần đáng kể trong sự tăng lên của tài sản nhân (từ một phần
mười đến một phần tùy từng nước). chưa giải thích được phần ch yếu, nhưng sao
phần đó cũng không b qua được.
Ngoài ra, khả năng các ước lượng hiện đánh giá thấp hơn thực tế một chút giá trị
của tài sản công cộng trong những năm 1970, nhất tại Liên hiệp Anh (có thể cả Ý và Pháp),
và vậy dẫn đến việc ta ước lượng thấp biên độ của sự lưu chuyển từ của cải công cộng thành
27
Đầu công cộng nét nói chung khá thấp (xung quanh mức 0,5%-1% thu nhập quốc gia, trong đó 1,5%-2%
cho đầu công cộng thô và 0,5%-1% cho sự xuống giá của vốn công cộng), do đó tiết kiệm công cộng âm thường
đồng nghĩa với thiếu hụt ngân sách công cộng. Tuy vy cũng những ngoại lệ: đầu công cộng tại Nhật mạnh
hơn, thế tiết kiệm công cộng vẫn mức dương nhẹ bất chấp ngân sách công cộng thiếu hụt rất nhiều. Xem
phụ lục thuật.
22l5.com 219
Lecture: une part significative (et variable suivant les pays) de l'épargne privée est absorbée par
les déficits publics, d'où une épargne nationale (privée + publique) plus faible que l'épargne privée.
10,1%
-2,4%
France
9,2%
Japon
-2,0%
7,6%
12,2%
11,1% -1,9%
Sources: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c
Royaume-Uni
5,3%
Italie
8,5%
Canada
Australie
8,9%
15,0%
9,8%
7,3% -2,0%
-6,5%
Tableau 5.4. Epargne privée et publique dans les pays riches, 1970-2010
Epargne nationale
(privée + publique)
(nette de dépréciation)
(en % du revenu national)
dont: Epargne
privée
dont: Epargne
publique
-0,9%
Etats-Unis
5,2%
14,6%
Allemagne
10,2%
14,5% 0,1%
12,1% -2,0%
Bảng T.5.4: Tiết kiệm nhân và tiết kiệm công cộng tại các nước giàu giai đoạn 1970-2010
220 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
của cải nhân
28
. Điều này cũng thể giúp giải thích tại sao trong giai đoạn 1970-2010 tài sản
nhân đã tăng mạnh đến thế bất chấp tiết kiệm nhân thiếu rệt, nhất tại Anh: trong
trào lưu nhân hóa doanh nghiệp công cộng những năm 1980-1990, các vụ mua bán thường
được thực hiện với giá thấp thấy (điều này giúp cho các giao dịch trở nên phổ biến dễ dàng
hơn cho những người mua tài sản).
Các phong trào lưu chuyển tài sản từ khu vực công cộng về khu vực nhân không chỉ xảy
ra tại các nước giàu kể từ những năm 1970, còn xa đằng khác. Tiến trình chung y xảy ra
tại tất cả các châu lục. Trên qui toàn cầu, vụ nhân hóa tài sản với khối lượng lớn nhất
trong những thập kỉ gần đây (và cũng lớn nhất trong toàn b lịch sử đồng vốn) hiển nhiên
trường hợp các nước trong khối Soviet cũ.
Các ước lượng chúng tôi - rất không hoàn hảo - chỉ ra rằng tài sản nhân tại
Nga và tại các nước Đông Âu đang mức bốn năm thu nhập quốc gia vào cuối những năm
2000 và đầu những năm 2010, và tài sản công cộng nét cực thấp, giống như tại các nước
giàu. Các ước lượng cho những năm 1970-1980, trước sự kiện Bức tường Berlin và sự sụp đổ của
các chế độ theo ch nghĩa vốn chung, còn kém hoàn hảo hơn nữa. Nhưng các số liệu đều cho
thấy rằng sự phân b tài sản trong những năm 1970-1980 hoàn toàn ngược lại với những năm
2000-2010: tài sản nhân thời đó co lại còn rất ít ỏi (vài tấc đất lẻ tẻ, hoặc một phần nhà
tại những nước theo ch nghĩa vốn chung ít khắc nhất đối với quyền sở hữu nhân; nhưng
trong mọi trường hợp đều dưới một năm thu nhập quốc gia), và vốn công cộng chiếm toàn b
vốn công nghiệp và phần lớn vốn quốc gia - tức theo xấp xỉ ban đầu tương đương từ ba
đến bốn năm thu nhập quốc gia. Nói cách khác, tổng vốn quốc gia đã không thay đổi nhiều: đơn
giản sự phân b giữa vốn công cộng và vốn nhân đã hoàn toàn đảo vị trí cho nhau.
Tóm lại: sự tăng lên rất mạnh của tài sản nhân của Nga và Đông Âu từ cuối những năm
1980 đến những năm 1990-2000 (đối với một số trường hợp nhân, dạng giàu lên nhanh
kinh khiếp - ta thể liên tưởng tới những tay “trùm sò” người Nga) hiển nhiên không
liên quan đến qui luật động β = s/g. Đó chỉ một sự chuyển đổi thuần chất và trần trụi của
quyền sở hữu vốn từ các quan công quyền về tay các nhân. Phong trào nhân hóa tài sản
từng thấy tại các nước phát triển kể từ những năm 1970-1980 thể được xem như một dạng
28
Sự đánh giá thấp hơn nói trên thể do số lượng rất ít của các giao dịch tài sản công cộng trong giai đoạn
này. Xem phụ lục thuật.
22l5.com 221
mờ nhạt hơn của quá trình cực độ k trên.
Sự lên cao lịch sử của giá tài sản
Nhân tố cuối cùng giải thích cho sự tăng lên của tỉ số vốn/thu nhập trong những thấp kỉ gần
đây sự lên cao lịch sử của giá tài sản. Nói cách khác, giai đoạn 1970-2010 chỉ thể được
phân tích một cách đúng đắn nếu ta đặt vào trong một hoàn cảnh lịch sử dài hơn - giai đoạn
1910-2010. Ta không các số liệu lịch sử đầy đủ cho toàn b các nước phát triển, nhưng các
y số ta đã thiết lập cho Liên hiệp Anh, Pháp, Đức và cho các kết quả hoàn toàn thống
nhất. Ta sẽ tóm tắt chúng dưới đây.
Nếu ta xem xét toàn b giai đoạn 1910-2010, hay giai đoạn 1870-2010, ta thấy rằng tiến trình
tổng thể của tỉ số vốn/thu nhập thể được giải thích rất bởi qui luật động β = s/g. Đặc
biệt, việc tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn tại Châu Âu cao hơn Châu một cách cấu trúc
thống nhất một cách hoàn hảo với hiệu số của các tỉ lệ tiết kiệm và nhất các tỉ lệ tăng trưởng
giữa hai châu lục trong thế kỉ vừa qua
29
. Sự rớt xuống của tỉ số vốn/thu nhập trong giai đoạn
1910-1950 thống nhất với mức thấp của tiết kiệm quốc gia và với sự tàn phá
30
xảy ra trong
những năm đó; và việc tỉ số vốn/thu nhập tăng nhanh hơn trong giai đoạn 1980-2010 so với giai
đoạn những năm 1950-1980 do tỉ lệ tăng trưởng đã giảm đi giữa hai giai đoạn trên.
Mặc vy, điểm thấp nhất của tỉ số vốn/thu nhập những năm 1950 còn thấp hơn cả những
được dự báo bởi logic tích lũy đẳng gói gọn trong qui luật β = s/g. Để hiểu hơn về biên
độ của sụt giảm giữa thế kỉ 20, ta nhớ lại giá bất động sản và chứng khoán đã mức thấp
lịch sử ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai (bởi nhiều do khác nhau như đã trình y trong
hai chương trước: chính sách giữ giá th nhà và giám sát tài chính, không khí chính trị không
mấy thuận lợi cho ch nghĩa vốn nhân), rồi lên cao dần dần kể từ những năm 1950 với
tăng tốc nhanh kể từ những năm 1980.
Theo các ước lượng của chúng tôi, quá trình rượt đuổi của giá tài sản hiện nay v đã hoàn
thành: b qua các giật nẩy và các tiến trình thất thường ngắn hạn, sự tăng giá của giai đoạn
29
Từ năm 1870 đến năm 2010, tỉ lệ tăng trưởng trung bình của thu nhập quốc gia vào khoảng 2%-2,2% tại
Châu Âu (trong đó 0,4%-0,5% tăng trưởng dân số) và 3,4% tại (trong đó 1,5% tăng trưởng dân số). Xem
phụ lục thuật.
30
người dịch. Ý nói sự tàn phá của hai cuộc Chiến tranh thế giới.
222 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
1950-2010 vẻ đã trừ xấp xỉ sự giảm giá của giai đoạn 1910-1950. Tuy nhiên sẽ thật liều
lĩnh khi kết luận rằng pha tăng giá tính cấu trúc y đã chấm dứt hẳn, rằng giá tài sản từ
nay sẽ tăng tiến theo chính xác cùng nhịp độ với giá tiêu dùng trong các thập kỉ sắp tới. Một
mặt, các số liệu lịch sử không đầy đủ và không hoàn hảo, và các so sánh giá cả trong các giai
đoạn dài như vậy chỉ tính xấp xỉ thôi. Mặt khác, rất nhiều các nguyên nhân thuyết
khiến giá tài sản v dài hạn tiến triển không giống với với các loại giá cả khác, dụ chẳng hạn
một số loại tài sản - nhà xưởng, thiết bị - nhịp độ tiến b thuật khác với nhịp độ trung
bình của nền kinh tế, hay do tầm quan trọng của một số nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn.
Điểm cuối cùng không kém phần quan trọng: một lần nữa ta cần phải nhấn mạnh rằng giá
của đồng vốn - b qua các bong bóng tài sản giai đoạn ngắn và giai đoạn trung bình luôn đặc
trưng của nó, bỏ qua các sự lệch lạc giá cả (nếu có) mang tính cấu trúc dài hạn - luôn phần
nào đó một sản phẩm mang tính hội và chính trị: phản ánh khái niệm về quyền sở hữu
hiện hữu trong một hội nhất định, và phụ thuộc vào các chính sách và thể chế đa dạng
điều tiết các mối quan hệ giữa các nhóm hội liên quan - nhất giữa những người sở hữu vốn
và những người không sở hữu vốn. Điều đó rất hiển nhiên chẳng hạn đối với giá bất động sản:
phụ thuộc vào những qui định hiện hành xác lập mối quan hệ giữa ch nhà và người thuê
nhà cũng như cách tính giá tiền thuê nhà. Điều đó cũng đúng với giá chứng khoán, như ta đã
thấy trong chương trước khi ta nói về giá trị thị trường tương đối thấp đặc trưng của các doanh
nghiệp Đức.
Dưới c nhìn đó, lẽ sẽ rất hay khi ta phân tích tiến trình của tỉ số giữa giá trị thị trường
và giá trị kế toán của các công ti tại những nước ta số liệu cho giai đoạn 1970-2010 (xem biểu
đồ G5.6). Bạn đọc nào nhận định vấn đề trên quá thuật thể chuyển trực tiếp sang đoạn
sau không gặp khó khăn lớn cả.
Giá trị thị trường tương ứng với giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán của các công
ti niêm yết. Đối với các công ti không niêm yết, hoặc quá bé, hoặc quyết định
không nhờ đến thị trường chứng khoán (ví dụ để giữ tính chất gia đình - điều thể xảy ra trong
những công ti rất lớn), giá trị thị trường như được tính trong các sổ sách quốc gia thường dựa
trên sự tham chiếu đến đến các doanh nghiệp niêm yết đặc điểm tương tự nhất thể (lĩnh
vực hoạt động, kích cỡ, v.v), và tính “dễ giao dịch” trong thị trường đang xét
31
. Chính giá trị thị
31
Nếu một công ti không niêm yết và nếu rất khó bán một phần tài sản của mình (do các giao dịch ít ỏi,
22l5.com 223
Graphique 5.6. Valeur de marché et valeur comptable des sociétés
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
140%
160%
1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Lecture: le "Q de Tobin" (rapport entre valeur de marché et valeur comptable des sociétés) a eu tendance à
progresser en moyenne dans les pays riches depuis les années 1970-1980.
Sources et séries: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Rapport entre valeur de marché et valeur comptable des sociétés
Etats-Unis Japon
Allemagne France
Royaume-Uni Canada
Biểu đồ G5.6: Giá trị thị trường và giá trị kế toán của các công ti
trường đã được ta dùng từ đầu sách tời giờ để đo lường dự trữ tài sản nhân và tài sản quốc
gia. Giá trị kế toán, còn được gọi “giá trị sổ sách” (book value), hay “tài sản kế toán nét”, hay
“quĩ riêng”, bằng tổng giá trị của tất cả tài sản - tòa nhà, thiết bị, máy c, chứng chỉ, đóng
góp đa số hoặc thiểu số trong các chi nhánh và trong các công ti khác, tiền trong két v.v. - được
ghi trong bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp, trừ đi tất cả các khoản nợ.
Trên nguyên tắc, nếu không bất định, giá trị thị trường và giá trị kế toán của một công
ti phải bằng nhau, vậy tỉ số giữa chúng phải bằng 1 (hay 100%). Điều này thường đúng khi
công ti được thành lập. Nếu những người góp vốn b 100 triệu euro để mua phiếu góp vốn, và
công ti đó dùng khoản tiền trên để mua bàn ghế và thiết bị với giá trị 100 triệu euro, thì giá trị
thị trường và giá trị kế toán đều bằng 100 triệu. Tình hình cũng giống như vậy nếu công ti vay
50 triệu để mua y c mới giá trị 50 triệu: tài sản kế toán nét luôn bằng 100 triệu (150
đến mức cần rất nhiều thời gian để tìm được người muốn mua), thì thể sẽ bị định giá thấp hơn 10% hay
20% so với một công ti tương tự niêm yết trên thị trường chứng khoán phiếu góp vốn luôn tìm được người
muốn mua và người muốn bán trong ngày.
224 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
triệu tài sản, trừ đi 50 triệu nợ), bằng với giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán. Cũng vẫn
như thế nếu công ti thu được 50 triệu euro lợi nhuận và quyết định dự trữ khoản lợi nhuận này
để chi trả các đầu mới giá trị 50 triệu: giá công ti trên thị trường sẽ tăng lên đúng bằng
khoản tiền đó (do ai cũng biết rằng công ti vừa sở hữu thêm các tài sản mới), do đó giá trị thị
trường cũng như giá trị kế toán sẽ tăng lên mức 150 triệu.
Khó khăn đến từ việc đời sống của một doanh nghiệp một cách nhanh chóng sẽ trở nên phức
tạp và hơn nhiều: dụ, sau một khoảng một thời gian, không ai còn biết liệu khoản
đầu 50 triệu mấy năm trước thật sự ích cho hoạt động kinh tế của doanh nghiệp hay
không. Khi đó giá trị kế toán và giá trị thị trường thể lệch xa nhau. Doanh nghiệp tiếp tục
ghi chép các khoản đầu (bàn ghế, máy c, thiết bị, chứng chỉ v.v) vào bảng tổng kết tài
sản theo giá trị thị trường của chúng, thế nên giá trị kế toán của doanh nghiệp không đổi
32
.
Còn giá trị thị trường của doanh nghiệp thể thấp hơn hoặc cao hơn giá trị kế toán rệt,
tùy theo việc liệu thị trường chứng khoán bất chợt trở nên bi quan hay lạc quan về năng lực
của doanh nghiệp trong việc sử dụng các khoản đầu đó để sinh ra hoạt động kinh doanh và
lợi nhuận không. Chính vy tỉ số giữa giá trị thị trường và giá trị kế toán tại các công ti
khác nhau trên thực tế rất nhiều khác biệt. dụ, tỉ số này - còn được gọi tỉ số “Q Tobin”
(theo tên của nhà kinh tế học James Tobin người đầu tiên định nghĩa tỉ số đó) -, biến động từ
suýt soát 20% lên hơn 340% nếu ta xem xét các công ti Pháp niêm yết trong chỉ số CAC 40
33
vào năm 2012
34
.
Nhưng tại sao tỉ số Q Tobin tính cho toàn b các công ti của một nước nào đó lại nhất nhất
cao hơn (hay thấp hơn) 1? Như thường lệ ta phân biệt hai cách giải thích cho hai trường hợp
như sau.
Nếu một số đầu phi vật chất (chi tiêu dùng để tăng giá trị cho nhãn hiệu công ti, hay chi
tiêu cho nghiên cứu và phát triển) không được tính nghiêm chỉnh trong bảng tổng kết tài sản,
thì rất logic giá trị thị trường trung bình sẽ cao hơn giá trị kế toán một cách cấu trúc. Điều
y thể dùng để giải thích cho các tỉ số cao hơn một chút xíu tại (khoảng 100%-120%), và
32
người dịch. Ý nói doanh nghiệp b một khoản đầu để mua thêm trang thiết bị với giá thị trường đúng
bằng như vy. Xem dụ trong đoạn trên.
33
người dịch. Chỉ số chứng khoán tiêu chuẩn của thị trường chứng khoán Pháp, gồm 40 công ti Pháp giá trị
vốn hóa lớn nhất.
34
Bạn đọc thể xem dụ “Hồ tài chính của chỉ số CAC 40”, Báo cáo của văn phòng kế toán Ricol Lasteyrie,
26 tháng 6 năm 2012. Sự biến động cực lớn của tỉ số Q Tobin như trên được quan sát thấy tại tất cả các nước,
trên tất cả các thị trường chứng khoán.
22l5.com 225
nhất tại Liên hiệp Anh (khoảng 120%-140%) vào cuối những năm 1990 và trong những năm
2000. Tuy nhiên ta thấy rằng các tỉ số cao hơn một này cũng phản ánh hiện tượng bong bóng
chứng khoán tại hai nước: tỉ số Q Tobin nhanh chóng quay về 1 khi bong bóng Internet năm
2001-2002 bị vỡ cũng như trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 (xem biểu đồ G5.6).
Ngược lại, nếu việc sở hữu phiếu góp vốn của một doanh nghiệp không đem lại tất cả quyền
kiểm soát doanh nghiệp, chẳng hạn do những người giữ phiếu góp vốn phải bàn thảo với các
stakeholders khác của doanh nghiệp (các đại diện của người đi làm lĩnh lưỡng trong công ti,
chính quyền địa phương hoặc trung ương, hiệp hội người tiêu dùng, v.v) trong khuôn khổ hợp
tác lâu dài, như trường hợp “ch nghĩa vốn kiểu Rheinland” ta nhắc tới trong chương trước,
thì rất logic giá trị thị trường trung bình s thấp hơn giá trị kế toán một cách cấu trúc. Điều
y thể dùng để giải thích cho các tỉ số thấp hơn một chút xíu tại Pháp (xung quanh 80%),
và nhất tại Đức và tại Nhật (khoảng 50%-70%) trong những năm 1990-2000, trong khi đó tại
các nước anglo-saxon tỉ số này thường đạt gần hoặc vượt quá 100% (xem biểu đồ G5.6). Cũng
cần lưu ý giá trị vốn hóa được tính dựa trên giá của phiếu góp vốn trong các giao dịch thông
dụng. Các giao dịch y nói chung tương ứng với các khoản góp vốn thiểu số, chứ không phải
để lấy quyền kiểm soát doanh nghiệp: việc đó thường được thực hiện với giá cao hơn hẳn giá
thông dụng, thường cao hơn khoảng 20%. Điều này đủ để giải thích tại sao tỉ số Q Tobin lại vào
khoảng 80%, k cả khi ta b qua tất cả các stakeholder khác trừ những người góp vốn thiểu số.
Ngoài những khác biệt thú vị giữa các nước (chứng tỏ giá của đồng vốn luôn phụ thuộc vào
các luật lệ và các thể chế của nước đang xét), ta nhận thấy một xu hướng chung theo đó tỉ số Q
Tobin tăng lên tại các nước giàu kể từ những năm 1970. Xu hướng này phản ánh hiện tượng lên
cao lịch sử của giá tài sản. Nếu tính cả chứng khoán và bất động sản, thể xem như sự tăng
lên của giá tài sản giải thích được trung bình từ một phần đến một phần ba sự tăng lên của
tỉ số vốn quốc gia/thu nhập quốc gia tại các nước giàu từ năm 1970 đến năm 2010 (có khác biệt
rất lớn giữa các nước
35
).
35
Xem phụ lục thuật.
226 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
Vốn quốc gia và tài sản ngoài nước nét tại các nước giàu
Như đã nhắc đến trong các chương trước, khối tài sản ngoài nước khổng lồ do các nước giàu,
đặc biệt Liên hiệp Anh và Pháp, sở hữu ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã hoàn
toàn biến mất do hậu quả của các biến cố giai đoạn 1914-1945, và kể từ đó chưa bao giờ đạt lại
được mức cao như vy. Thật vậy, nếu ta xem xét mức độ của vốn quốc gia và vốn ngoài nước tại
các nước giàu trong giai đoạn 1970-2010, rất dễ kết luận rằng tài sản ngoài nước tầm quan
trọng hạn chế: đôi khi dương nhẹ, đôi khi âm nhẹ, tùy từng nước và tùy từng năm, nhưng
nói chung khá thấp so với vốn quốc gia. Nói cách khác, sự tăng lên rất mạnh của vốn quốc
gia tại các nước giàu phản ánh trước hết sự tăng tiến của vốn trong nước tại các nước đó, và tài
sản ngoài nước nét - theo xấp xỉ ban đầu - v như chỉ đóng vai trò tương đối thứ yếu (xem
biểu đồ G5.7).
Graphique 5.7. Le capital national dans les pays riches, 1970-2010
-100%
0%
100%
200%
300%
400%
500%
600%
700%
800%
1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Lecture: les actifs étrangers nets détenus par le Japon et l'Allemagne sont compris entre 0,5 et 1 année de revenu
national en 2010. Sources et séries: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Valeur du capital, en % du revenu national
Etats-Unis Japon
Allemagne France
Royaume-Uni Italie
Canada Australie
Capital
étranger net
Capital
national
Biểu đồ G5.7: Giá trị thị trường và giá trị kế toán của các công ti
Tuy nhiên một kết luận như vy lẽ hơi quá đáng. Thật vy, Nhật và Đức đã tích lũy
22l5.com 227
được khối tài sản ngoài nước nét rất đáng kể trong những thập kỉ gần đây, nhất trong những
năm 2000 (đây phần lớn hệ quả học từ sự thừa thương mại của hai nước này). Vào đầu
những năm 2010, tài sản ngoài nước nét do Nhật sở hữu đạt khoảng 70% thu nhập quốc gia của
Nhật, và cán cân nét ngoài nước của Đức đạt quanh mức 50% thu nhập quốc gia của Đức.
nhiên, vẫn không so với khối tài sản ngoài nước do Liên hiệp Anh sở hữu ngay trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất - gần hai năm thu nhập quốc gia, hay do Pháp sở hữu - hơn một
năm. Nhưng khi nghĩ đến sự nhanh tay của hai nước đó trên quĩ đạo tích lũy tài sản, ta tự nhiên
sẽ đặt câu hỏi: rồi tiến trình này sẽ tiếp tục ra sao
36
. nước nào bị rơi vào vòng bị sở hữu bởi
các nước khác trong thế kỉ 21 không? Cán cân tài sản ngoài nước rất lớn từng thấy thời thuộc
địa khả năng sẽ bị đuổi kịp, thậm c bị vượt mặt không?
Để xử đúng các câu hỏi y, ta sẽ cần phải đưa vào phân tích các nước dầu mỏ và các nước
mới mổi (bắt đầu bằng Trung Quốc) - các nước cực thiếu hụt số liệu lịch sử (vì thế ta không
dành nhiều thời gian cho chúng từ đầu sách tới giờ), nhưng các số liệu cho giai đoạn hiện thời
tốt hơn nhiều. Cũng sẽ phải tính đến bất bình đẳng tài sản trên qui nhân và trong nội
b một nước, chứ không chỉ giữa các nước với nhau. Ta sẽ quay lại vấn đề về sự vận động của
sự phân b vốn toàn cầu trong phần thứ ba của sách.
Ngay lúc này hãy đơn giản ghi nhớ là, một cách học, logic của qui luật β = s/g thể
dẫn đến những sự mất cân bằng toàn cầu rất lớn xét về cán cân tài sản, như được minh họa
ràng qua trường hợp của Nhật. Với cùng một trình độ phát triển, tỉ lệ tăng trưởng (nhất
dân số) hay tỉ lệ tiết kiệm chỉ cần khác nhau rất nhẹ thôi thể khiến một số nước tỉ số
vốn/thu nhập cao hơn các nước khác rất nhiều, trong trường hợp đó không lạ khi các nước
thuộc nhóm thứ nhất đầu khối lượng lớn vào các nước nhóm thứ hai. Điều này khả năng
y ra những căng thẳng chính trị lớn. Trường hợp của Nhật cũng minh họa cho loại rủi ro thứ
hai - loại rủi ro này thể xảy đến khi tỉ số vốn/thu nhập điểm cân bằng β = s/g đạt đến
36
thừa thương mại đạt 6% SPTTN của Đức vào đầu những năm 2010. Điều này cho phép Đức tích lũy tài
sản rất nhanh đối với phần còn lại của thế giới. Để so sánh, thừa thương mại của Trung Quốc chỉ đạt 2%
SPTTN của Trung Quốc (cả hai đều thừa thương mại đạt quanh mức 170-180 tỉ euro một năm, nhưng
SPTTN của Trung Quốc cao hơn của Đức ba lần: khoảng 10000 tỉ so với 3000 tỉ euro). Ta cũng thể ghi nhớ
năm năm thừa thương mại của Đức thể mua được tương ứng với toàn bộ giá trị vốn hóa của bất động
sản Paris và năm năm b sung nữa Đức thể mua được CAC 40 (khoảng 800-900 tỉ một lô). Tuy nhiên sự
thừa thương mại rất lớn y vẻ đến từ tính cạnh tranh cao của hàng hóa Đức hơn từ mục tiêu tích lũy tài
sản ràng. thế người đoán rằng nhu cầu tiêu dùng trong nước tại Đức sẽ tăng lên và sự thừa thương
mại nói trên sẽ giảm đi trong những năm tới. Tại các nước dầu mỏ (các nước này nằm trên quĩ đạo tích lũy tài
sản ngoài nước rất ràng), thừa thương mại vượt quá 10% SPTTN (tại Saudi Arabia và tại Nga), thậm chí
nhiều chục phần trăm tại các nước dầu mỏ hon. Xem chương 12 và ph lục thuật.
228 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
mức rất cao: nếu dân của nước đang xét ưa chuộng các tài sản trong nước hơn, dụ như bất
động sản của Nhật, thì thể đẩy giá của loại tài sản đó lên mức cao chưa từng thấy. V việc
y, ta nên để ý một chuyện thú vị kỉ lục của Nhật năm 1990 đã bị Tây Ban Nha phá, nước
tổng tài sản nhân nét đã đạt tám năm thu nhập quốc gia ngay trước cuộc khủng hoảng
2007-2008, tức hơn Nhật năm 1990 một năm. Bong bóng tài sản của Tây Ban Nha bắt đầu
hơi rất nhanh kể từ năm 2010-2011, giống như hình ảnh bong bóng của Nhật vào đầu những
năm 1990
37
. Hoàn toàn thể các bong bóng ngoạn mục hơn nữa sẽ được hình thành trong
tương lai, song song với việc tỉ số vốn/thu nhập β = s/g lập các đỉnh cao mới. Nhân tiện ta cũng
lưu ý lợi ích của việc trình bày các tiến trình lịch sử của tỉ số vốn/thu nhập như trên và qua đó
khai thác các bản ghi chép tài sản quốc gia theo phương diện dự trữ tài sản và dòng tiền. Việc
y giúp ta kịp thời phát hiện ra việc tài sản bị định giá quá cao không và nhờ vy thể
tiến hành áp dụng các chính sách thận trọng hay tài chính thích hợp nhằm làm dịu đi sự hưng
phấn đầu của các thể chế tài chính tại nước đang xét.
Cũng cần lưu ý một cán cân tài sản nét nhỏ bé thể ẩn giấu sau những khối tài sản
thô cực khủng. Thật vy, một đặc tính của sự toàn cầu hóa tài chính hiện nay việc mỗi nước
phần lớn đều bị sở hữu bởi các nước khác. Điều này không chỉ che tối các cảm nhận v sự phân
b của cải toàn cầu, còn làm cho các nước nhỏ dễ bị tổn thương, và dẫn đến sự không ổn
định trong phân b cán cân tài sản nét toàn cầu. Nhìn chung, ta đã chứng kiến kể từ những năm
1970-1980 một phong trào rất mạnh mẽ - phong trào tài chính hóa nền kinh tế và cấu trúc tài
sản: khối lượng tài sản tài chính và nợ tài chính do các khu vực kinh tế khác nhau sở hữu (hộ
gia đình, công ti, quan hành chính) đã tăng lên nhanh hơn cả giá trị nét của tổng tài sản.
Toàn b tài sản tài chính và nợ tài chính không vượt quá bốn-năm năm thu nhập quốc gia tại
phần lớn các nước vào đầu những năm 1970. Giờ thường vào khoảng từ mười đến mười lăm
năm thu nhập quốc gia vào đầu những năm 2010 (đặc biệt tại Mĩ, Nhật, Đức và Pháp), thậm
c hơn hai mươi năm tại Liên hiệp Anh - kỉ lục tuyệt đối trong lịch sử
38
. Điều đó phản ánh sự
37
Xem biểu đồ b sung S5.2 (có trên mạng).
38
Xem biểu đồ S5.3-S5.4 (có trên mạng). Lưu ý với bạn đọc các bảng tổng kết do các ngân hàng trung ương
và các quan hành chính thông xác lập chỉ đề cập đến các tài sản tài chính cấp (nợ vay, phiếu góp vốn,
giấy ghi nợ và các giấy tờ tài chính) chứ không nói đến các sản phẩm thứ cấp (dưới hình thức các hợp đồng bảo
hiểm trên các tài sản cấp, hay các công cụ cược, tùy quan điểm); nếu tính cả các sản phẩm thứ cấp,
tổng số sẽ còn cao hơn nữa (từ hai mươi đến ba mươi năm thu nhập quốc gia, tùy theo định nghĩa được dùng).
Tuy nhiên khối tài sản và nợ tài chính kể trên (hiện nay chúng đạt mức cao hơn nhiều tất cả các mức từng thấy
trong lịch sử: vào thế kỉ 19 và đến tận Chiến tranh thế giới thứ nhất, tổng tài sản và nợ tài chính chưa vượt quá
bốn-năm năm thu nhập quốc gia) theo định nghĩa không hề ảnh hưởng nào đến tổng tài sản nét (giống hệt
22l5.com 229
phát triển chưa từng của sở hữu chéo giữa các công ti tài chính và phi tài chính trong cùng
một nước (đặc biệt sự thổi phồng đáng kể của các bảng tổng kết ngân hàng, quá lớn so với
với sự tăng lên của các quĩ riêng
39
trong các ngân hàng đó), cũng như đầu chéo giữa các quốc
gia.
V việc này, bạn đọc lưu ý hiện tượng đầu chéo giữa các nước tại Châu Âu (bắt đầu
bằng Liên hiệp Anh, Đức và Pháp - nơi tài sản tài chính do các nước khác sở hữu chiếm từ
một phần đến một nửa tổng tài sản tài chính trong nước, tức rất đáng kể) lớn hơn rất
nhiều so với những nền kinh tế kích cỡ lớn hơn như hoặc Nhật (tại hai nước y phần tài
sản tài chính do các nước khác sở hữu không vượt quá một phần mười tổng tài sản tài chính
trong nước mấy)
40
. Điều này làm tăng cảm giác bị mất sở hữu (nhất tại Châu Âu), đôi khi
hơi thái quá (người ta quên ngay rằng nếu các công ti hay nợ công cộng của nước mình phần
lớn bị sở hữu bởi phần còn lại của thế giới, thì người ta cũng sở hữu những tài sản ngoài nước
tương đương như thế, thông qua các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và các sản phẩm tài chính đa
dạng khác), nhưng cũng phần lí. Thật vậy, cấu trúc sở hữu tài sản nói trên làm các nước
nhỏ, nhất các nước nhỏ tại Châu Âu, trở nên rất dễ tổn thương, theo nghĩa chỉ cần những
“sai sót” nhỏ trong việc tính giá tài sản và nợ tài chính do một nước nào đó sở hữu thể dẫn
đến những thay đổi rất lớn trong cán cân tài sản nét của nước đang xét
41
. Ngoài ra ta nhận
thấy rằng tiến trình của tài sản nét tại các nước khác nhau được quyết định không chỉ bằng sự
tích lũy khoản tiền thừa (hay thiếu hụt) của cán cân thương mại, còn bằng sự khác biệt
rất lớn trong tỉ lệ lãi trên tài sản và nợ tài chính các nước đang xét thu được
42
. Nói thêm
như các khoản tiền cược trên một sự kiện thể thao không làm ảnh hưởng đến tổng tài sản quốc gia). Xem phụ
lục thuật.
39
người dịch. Nguyên bản: fonds propres.
40
dụ, tài sản tài chính phần còn lại của thế giới sở hữu tại Pháp chiếm 310% thu nhập quốc gia của
Pháp năm 2010, và tài sản tài chính do dân Pháp sở hữu trong phần còn lại của thế giới chiếm 300% thu nhập
quốc gia, do đó cán cân tài sản -10%. Tại Mĩ, cán cân tài sản -20% thu nhập quốc gia, tương ứng với khối
tài sản tài chính khoảng 120% do phần còn lại của thế giới sở hữu tại và khoảng 100% do người sở hữu
ngoài nước. Xem biểu đồ S5.5-S5.11(có trên mạng) để biết thêm về các dãy số chi tiết cho từng nước.
41
Liên quan đến việc này ta lưu ý sự khác biệt chính giữa bong bóng tài sản của Nhật và của Tây Ban Nha
Tây Ban Nha hiện nay đang cán cân tài sản âm vào khoảng một năm thu nhập quốc gia (điều làm cho tình
hình nước y nước trở nên rất lằng nhằng), trong khi Nhật Bản cán cân tài sản dương cũng vào khoảng một
năm thu nhập. Xem phụ lục thuật.
42
Đặc biệt, do thiếu hụt thương mại rất lớn, cán cân tài sản nét của đúng ra phải âm hơn rất nhiều
so với mức thực tế. Cách biệt này được giải thích bằng việc tài sản của ngoài nước thu được tỉ lệ lãi rất
cao (ch yếu phiếu góp vốn) và nợ chỉ phải trả lãi thấp (nhất các giấy ghi nợ của Mĩ). V chủ đề này mời
bạn đọc xem các công trình của P.O.Gourinchas và H.Rey trích dẫn trong phần phụ lục. Ngược lại, cán cân nét
của Đức đúng ra phải cao hơn so với mức thực tế, và điều này được giải thích bằng việc tài sản của Đức đặt tại
nước ngoài tỉ lệ lãi thấp (có thể nguyên nhân phần nào cho sự cảnh giác đối với Đức hiện nay). Trong phụ
lục thuật chúng tôi đã phân tách trên qui toàn cầu sự tích lũy tài sản ngoài nước của các nước giàu trong
giai đoạn 1970-2010 thành hai hiệu ứng: hiệu ứng cán cân thương mại và hiệu ứng tỉ lệ lãi trên danh mục tài sản
230 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
một phần quan trọng của các cán cân tài sản quốc tế kể trên ch yếu phản ánh các dòng tiền ảo
liên quan đến các chiến lược tối ưu hóa tiền thuế hay tối ưu luật (thông qua các công ti ảo đặt
tại các nước chính sách thuế hoặc luật pháp hấp dẫn nhất) nhiều hơn các nhu cầu kinh tế
thật sự
43
. Ta sẽ quay lại vấn đề này trong phần thứ ba của sách khi ta xem xét vài trò của các
thiên đường thuế trong sự vận động toàn cầu của phân b tài sản.
Tỉ số vốn/thu nhập toàn cầu tại thế kỉ 21 sẽ đạt mức nào?
Qui luật động β = s/g cũng thể được dùng làm sở để suy đoán về mức độ của tỉ số vốn/thu
nhập trên qui toàn cầu tại thế kỉ 21.
Đầu tiên hãy xem ta thể nói về quá khứ. Đối với Châu Âu (hay ít ra các nền kinh tế
chính của Tây Âu) và Bắc Mĩ, ta các ước lượng đáng tin cậy cho toàn b giai đoạn 1870-2010.
Đối với Nhật, ta không các ước lượng đầy đủ về tổng tài sản nhân hoặc tài sản quốc gia
trước những năm 1960-1970. Nhưng các số liệu b phận ta có, trong đó các số liệu về thừa
kế của Nhật bắt đầu từ năm 1905, gợi ý một cách cực ràng rằng tài sản của Nhật cũng
đã đi theo cùng một dạng đường cong hình chữ U như của Châu Âu, và tỉ số vốn/thu nhập đã
đạt mức rất cao trong những năm 1910-1930, vào khoảng 600%-700%, trước khi rớt xuống vừa
vặn 200%-300% trong những năm 1950-1960 và sau đó bắt đầu lên lại về các mức rất cao gần
600%-700% trong những năm 1990-2000, như ta đã nghiên cứu phía trên.
Đối với các nước và các châu lục khác - Châu Á (không tính Nhật), Châu Phi và Nam
- các ước lượng tương đối đầy đủ được thiết lập k từ những năm 1990-2000, với tỉ số vốn/thu
nhập trung bình vào khoảng bốn năm thu nhập. Không bất ước lượng đầy đủ nào thật sự
đáng tin cậy cho giai đoạn 1870-1990, và ta đơn giản giả sử các nước y cùng tỉ số/vốn
thu nhập với mức toàn cầu. Do các nước này chiếm tổng thể chỉ suýt soát hơn một phần năm
SPTTC trong suốt giai đoạn trên, ảnh hưởng của các nước này lên tỉ số vốn/thu nhập trên qui
toàn cầu trong mọi trường hợp tương đối hạn chế.
Các kết quả thu được được trình bày trong biểu đồ G5.8. Do các nước giàu chiếm tỉ trọng
ngoài nước (xem bảng S5.13).
43
dụ, khả năng một phần đáng k trong thiếu hụt thương mại của đơn giản tương ứng với các
khoản tiền ảo chuyển đến chi nhánh của các công ti đóng tại các vùng lãnh thổ khoan dung hơn trong chính
sách thuế, rồi sau đó lại được chuyển về nước dưới dạng tiền lãi thu được ngoài nước (làm cân bằng lại cán cân
chi trả). Qua đó ta thấy các thao tác thuần túy giấy tờ như trên thể làm việc phân tích các hiện tượng kinh
tế đằng nhất sai lạc đi đến mức nào.
22l5.com 231
Graphique 5.8. Le rapport capital/revenu dans le monde, 1870-2100
100%
200%
300%
400%
500%
600%
700%
800%
1870 1890 1910 1930 1950 1970 1990 2010 2030 2050 2070 2090
Lecture: d'après les simulations du scénario central, le rapport capital/revenu au niveau mondial pourrait s'approcher
de 700% d'ici à la fin du 21e siècle. Sources et séries: voir piketty.pse.ens.fr/capital21c.
Valeur du capital privé, en % du revenu national
Séries
observées
Prévisions
(scénario
central)
Biểu đồ G5.8: Tỉ số vốn/thu nhập toàn cầu giai đoạn 1870-2010
lớn trong tổng thể, không ngạc nhiên mấy khi tỉ số vốn/thu nhập trên qui toàn cầu đã theo
cùng một dạng đường cong hình chữ U: tỉ số vốn/thu nhập trên qui toàn cầu hiện nay vẻ
tiến gần đến mức 500%, tức xấp xỉ bằng mức ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Thú vị nhất phần tiếp theo của quá trình trên. đây ta dùng các dự báo về tăng trưởng
dân số và kinh tế trình bày trong chương 2, theo đó tỉ lệ tăng trưởng sản lượng toàn cầu sẽ giảm
dần dần từ 3% một năm hiện nay xuống còn đúng 1,5% trong nửa sau của thế kỉ 21. Ta cũng
giả sử rằng tỉ lệ tiết kiệm v dài hạn sẽ ổn định quay mức 10%. Áp dụng qui luật động β = s/g
với các giả thiết như trên, ta thu được tỉ số vốn/thu nhập trên qui toàn cầu rất thể sẽ
tiếp tục tăng và sẽ tiến gần đế mức 700% trong thế kỉ 21, tức xấp xỉ với mức từng thấy tại
Châu Âu vào Thời Tươi đẹp và tại thế kỉ 18 và thế kỉ 19. Nói cách khác, toàn thế giới đến năm
2100 thể sẽ giống với Châu Âu vào Thời Tươi đẹp - ít nhất về độ đậm đặc của tài sản. Lẽ
tất nhiên đó chỉ một trong khác khả năng khả dĩ: ta biết rằng các dự báo tăng trưởng cực
không chắc chắn, và dự báo về tỉ lệ tiết kiệm cũng không chắc chắn như vy. Tuy nhiên các
232 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
kịch bản phỏng nói trên không phải không và cái hay của chúng đã minh họa cho
vai trò trung tâm của sự tăng trưởng chậm trong tích lũy vốn.
Điều ẩn đằng sau giá trị của đất đai
Theo định nghĩa, qui luật β = s/g chỉ đề cập đến các dạng vốn thể tích lũy được, và không
tính đến giá trị của tài nguyên thiên nhiên thuần túy, trong đó đất đai thuần túy, nghĩa
trước khi được con người cải thiện. Việc qui luật β = s/g cho phép tính được gần như toàn b
dự trữ vốn vào năm 2010 (từ 80% đến 100% tùy từng nước) khiến ta nghĩ rằng đất đai thuần
túy chỉ chiếm một phần nhỏ trong vốn quốc gia. Nhưng giá trị chính xác của phần nhỏ này
bao nhiêu? Các số liệu hiện không cho phép trả lời câu hỏi một cách hoàn toàn chính xác.
Trước tiên hãy xét trường hợp đất nông nghiệp trong các hội nông thôn truyền thống. Rất
khó để xác định chính xác phần nào tương ứng với các khoản do con người đầu và cải thiện
trong suốt tiến trình lịch sử - nhất dưới dạng khai hoang, tưới tiêu, rào dậu, sửa sang các loại
-, và phần nào ứng với giá trị thuần túy của đất đai tồn tại trước khi được con người khai thác.
Tuy nhiên vẻ mọi người đều công nhận các khoản đầu và cải thiện chiếm phần đa số
trong giá trị của đất đai. Tại thế kỉ 18, giá trị của đất nông nghiệp đạt mức tương đương với bốn
năm thu nhập quốc gia tại Pháp cũng như tại Liên hiệp Anh
44
. Theo các ước lượng được thực
hiện trước đây, ta thể đánh giá rằng các khoản đầu và cải thiện chiếm ít nhất ba phần
giá trị của đất đai, và chắc hẳn còn cao hơn. Giá trị của đất đai thuần túy chiếm nhiều nhất
một năm thu nhập quốc gia, và lẽ ít hơn nửa năm. Kết luận y ch yếu dựa trên việc giá
trị hàng năm của các công việc khai hoang, tưới tiêu v.v riêng đã những khoản tiền rất
lớn, vào khoảng 3%-4$ thu nhập quốc gia. Thế tỉ lệ tăng trưởng khá chậm, dưới 1% một
năm, nên giá trị tích tụ của các khoản đầu như trên sẽ gần như chiếm hết (thậm chí vượt
quá) toàn b tổng giá trị đất nông nghiệp
45
.
44
Rất khó so sánh với các hội cổ xưa, nhưng các ước lượng hiếm hoi hiện gợi ý rằng giá trị của đất đai
đôi khi thể lên đến mức cao hơn nữa, dụ theo các nghiên cứu của R.Goldsmith, đạt sáu năm thu nhập
quốc gia tại Roma Cổ đại (xem Pre-Modern Financial Systems. A Historical Comparative Study, (người dịch.
Tạm dịch: Hệ thống tài chính thời Tiền Hiện đại. Một nghiên cứu lịch sử-so sánh), Cambridge University Press,
1987, trang 58). Các ước lượng về sự luân chuyển tài sản qua các thế hệ trong các hội nguyên thủy cỡ nhỏ
(M.Borgerhoff S.Bowles, “Intergenerational wealth transmission and the dynamics of inequality in small-scale
societies”, (người dịch. Tạm dịch: “Sự luân chuyển tài sản qua các thế hệ và sự vận động của bất bình đẳng trong
các hội cỡ nhỏ”), Science, 2009) gợi ý rằng độ lớn của khối tài sản được chuyển cho thế hệ sau khác biệt rất
nhiều tùy theo hoạt động kinh tế của người được xét (thợ săn, thợ chăn nuôi, thợ trồng trọt...).
45
Xem phụ lục thuật.
22l5.com 233
Rất thú vị Thomas Paine, trong bản đề xuất lừng danh “Công cho nghề nông” gửi quốc
hội Pháp năm 1795, cũng đi đến kết luận phần không tích lũy được của tài sản quốc gia
(unimproved land
46
) tương ứng với khoảng một phần mười tài sản quốc gia, tức hơn nửa năm
thu nhập quốc gia một chút.
Tuy nhiên các ước lượng như vy không tránh khỏi việc tính chất rất xấp xỉ. Khi nhịp độ
tăng trưởng hàng năm yếu, chỉ cần những thay đổi rất nhẹ trong tỉ lệ đầu thể dẫn đến
các khác biệt rất lớn trong giá trị dài hạn của tỉ số vốn/thu nhập β = s/g. Điểm quan trọng cần
ghi nhớ đây phần lớn vốn quốc gia trong các hội truyền thống cũng đã dựa trên tích lũy
và đầu rồi: không thật sự thay đổi, chăng chỉ trừ việc sự xuống giá của vốn đất đai
rất thấp so với sự xuống giá của vốn bất động sản và vốn nghề nghiệp hiện đại: chúng cần
được thay thế và sửa chữa thường xuyên hơn nhiều (có lẻ điều y đã góp phần mang lại cảm
giác rằng vốn ngày nay “linh động” hơn). Nhưng với các số liệu rất hạn chế và không chính xác
hiện về ch đề đầu trong các hội nông thôn truyền thống, rất khó thể đẩy phân tích
đi xa hơn.
Đặc biệt, gần như không thể so sánh chính xác giá trị đất đai thuần túy tại thế kỉ 20 với
thế kỉ 21. Điểm mấu chốt ngày nay đất thành thị: đất nông nghiệp giá trị dưới 10% thu
nhập quốc gia tại Pháp cũng như tại Liên Hiệp Anh. Nhưng vấn đề là, giống như đối với đất
nông nghiệp tại thế kỉ 18, rất khó xác định giá trị đất thành thị thuần túy, độc lập không chỉ với
các tòa nhà hay công trình, còn với các sở hạ tầng và qui hoạch khiến trở nên hấp dẫn
hơn. Theo các ước lượng của chúng tôi, dòng tiền đầu hàng năm trong các thập kỉ gần đây
cho phép giải thích đúng gần như toàn b giá trị tài sản (đặc biệt bất động sản) năm 2010.
Nói cách khác, phần lớn sự tăng lên của tỉ số vốn/thu nhập không đến từ sự gia tăng giá trị của
đất thành thị thuần túy (nói xấp xỉ v khá tương đồng với giá trị đất nông nghiệp thuần
túy tại thế kỉ 18: từ nửa năm đến một năm thu nhập quốc gia). Tuy nhiên lề sai số rất lớn.
Hai điểm sau cần được nói thêm. Thứ nhất, việc tổng giá trị vốn hóa tài sản (đặc biệt bất
động sản) tại các nước giàu được giải thích khá đầy đủ qua sự tích lũy của dòng tiền tiết kiệm
và đầu tất nhiên không ngăn được sự tồn tại của các giá trị thêm rất lớn tính địa phương
tại một số địa bàn đặc biệt (nhất các thành phố lớn) đến từ các hiệu ứng tập trung dân cư.
Hẳn không nghĩa mấy nếu ai đó cho rằng thể giải thích sự tăng lên của giá trị bất động
46
người dịch. Tạm dịch: Đất đai chưa cải tạo.
234 Chương 5. Tỉ số vốn/thu nhập về dài hạn
sản trên đại lộ Champs-Élysées, hay Paris nói chung, chỉ bằng cách cộng tổng số các dòng tiền
đầu tư. đây ta đang nói đơn giản các ước lượng hiện gợi ý rằng các giá trị thêm tính
địa phương của bất động sản tại một số địa bàn phần lớn đã được trừ lại bằng các giá trị
bớt của bất động sản tại các địa bàn kém hấp dẫn hơn, dụ tại các thành phố cỡ vừa hoặc tại
một số khu vực dân bị bỏ bê.
Thứ hai, sự lên giá của đất đai thuần túy không giải thích được nhiều cho sự lên lại của tỉ
số vốn/thu nhập tại các nước giàu. Nhưng nhiên ta không thể nói chắc tương lai vẫn sẽ giống
như thế. Dưới c độ thuyết, không tồn tại bất lực kéo nào đảm bảo cho sự ổn định dài hạn
của giá trị đất đai, chứ chưa nói đến tổng thể các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ta sẽ xem xét
lại vấn đề này khi ta phân tích sự vận động của tài sản nói chung và tài sản ngoài nước của các
nước dầu mỏ nói riêng
47
.
47
Xem phần thư ba, chương 12.