Chương 1
Thu nhập và sản phẩm
Ngày 16 tháng 8 năm 2012, cảnh sát Nam Phi đã can thiệp vào vụ xát giữa công nhân mỏ
bạch kim Marikana, gần Johannesburg, và giới ch khai thác mỏ - những người giữ phiếu góp
vốn của công ti Lonmin, đặt trụ sở tại London. Lực lượng công vụ đã bắn đạn thật vào những
người tham gia đình công. Tổng kết: ba mươi thợ mỏ bị bắn chết
1
. Như thường thấy những
trường hợp tương tự, cuộc xung đột hội này tiêu điểm vấn đề tiền lương: thợ mỏ đòi
tăng lương từ 500 euro một tháng lên 1000 euro. Sau thảm kịch, cuối cùng công ti khai thác
đành đề xuất tăng thêm 75 euro một tháng
2
.
Hồi đoạn vừa rồi nhắc nhở những ai ý quên rằng vấn đề phân chia sản phẩm giữa tiền
lương và lợi nhuận, giữa thu nhập từ làm việc và thu nhập từ vốn, luôn chiều đầu tiên
3
của
xung đột liên quan đến phân phối của cải. Trong những hội truyền thống, sự đối lập xưa như
diễm giữa ch đất và nông dân, giữa người sở hữu đất đai và người mang sức lao động, người thu
tiền và người trả tiền thuê đất, nền tảng bản của bất bình đẳng hội và của tất cả các
cuộc nổi loạn. Cuộc Cách mạng công nghiệp vẻ đã làm trầm trọng hơn sự xung đột vốn-làm
việc này: đã mang đến những dạng sản xuất đòi hỏi sự tập trung vốn cao hơn trước (máy
1
Xem “South African police open fire on striking miners”, New York Times, 17 tháng 8 năm 2012. (người dịch.
Tạm dịch: Cảnh sát Nam Phi xả súng vào thợ mỏ quá khích”).
2
Xem thông cáo chính thức của công ti: “Lonmin seeks sustainable peace at Marikana”, 25 tháng 8 năm 2012,
www.lonmin.com (người dịch. Tạm dịch: “Lonmin tìm kiếm hòa hoãn lâu dài Marikana”). Theo tài liệu này,
lương bản của thợ mỏ tăng thêm 750 rand hàng tháng từ mức 5405 rand trước khi xung đột xảy ra (1 rand
Nam Phi = khoảng 0.1 euro). Số liệu này vẻ nhất quán với khai báo - được báo chí sau đó dẫn lại - của những
thợ mỏ tham gia đình công.
3
người dịch. Nguyên bản: première dimension.
49
50 Chương 1. Thu nhập và sản phẩm
c, tài nguyên thiên nhiên, v.v), hay đã dập tắt những tia hi vọng vào một sự phân b
của cải công bằng và một trật tự hội dân ch hơn (ta sẽ trở lại vấn đề này sau).
sao chăng nữa, sự kiện bi kịch Marikana làm chúng ta nhớ đến những cuộc bạo động
trước đây. Tại Haymarket Square, Chicago, ngày 1 tháng 5 năm 1886, rồi tiếp đến tại Fourmies,
phía bắc nước Pháp, ngày 1 tháng 5 năm 1891, lực lượng công vụ đã bắn giết những người công
nhân biểu tình đòi tăng lương. Phải chăng cuộc trạm chán vốn-làm việc đã thuộc về quá khứ,
hay chính một trong những cờ xoay chuyển thế kỉ 21 này?
Trong hai phần đầu tiên của sách, ta sẽ chú tâm trả lời câu hỏi về sự phân chia của thu nhập
quốc gia giữa làm việc và vốn trên phạm vi toàn cầu, và những chuyển biến của kể từ thế kỉ
18. Ta sẽ tạm thời gác lại vấn đề về bất bình đẳng trong nội b thu nhập từ làm việc (ví dụ giữa
công nhân, và quản đốc nhà máy) hoặc trong nội bộ thu nhập từ vốn (ví dụ giữa những
người giữ phiếu góp vốn hoặc ch sở hữu nhỏ, vừa, và lớn) - ch đề y sẽ được xem xét phần
thứ ba. Chiều hướng đầu tiên được gọi sự phân bố tính “nhân tố” đối lập hai “nhân
tố” của sự sản xuất vốn và làm việc (mỗi nhân tố y được coi một cách nhân tạo như một
khối đồng nhất). Chiều hướng thứ hai được gọi sự phân bố tính “cá thể” đề cập đến
sự bất bình đẳng giữa các thể trong thu nhập từ làm việc (hoặc trong thu nhập từ vốn). Tất
nhiên, mỗi chiều hướng của sự phân b của cải kể trên đều đóng vai trò nền tảng trong thực tế.
Ta không thể đi tới một sự hiểu biết thấu đáo về vấn đề phân b của cải nếu không nghiên cứu
hai chiều hướng này cùng nhau
4
.
Thêm nữa, vào tháng 8 năm 2012, những người thợ mỏ Marikana không chỉ biểu tình phản
đối lợi nhuận quá đáng của nhóm công ti
5
Lonmin, còn phản đối sự bất bình đẳng về tiền
lương giữa công nhân và sư, và phản đối mức lương nghe nói cao kinh ngạc của ông giám đốc
mỏ
6
. Cũng như vy, nếu sự sở hữu vốn được chia đều chằn chặn
7
và nếu mỗi người làm công
4
Sự phân b tính “nhân tố” đôi khi được gọi “chức năng” hoặc “kinh tế qui lớn”. Sự phân b tính
“cá thể” đôi khi được gọi “cá nhân” hoặc “kinh tế qui nhỏ”. Trên thực tế mỗi chiều hướng của sự phân bố
của cải này đưa vào cuộc những chế vừa tính kinh tế qui nhỏ (nghĩa phải được phân tích mức độ
doanh nghiệp hoặc tác nhân kinh tế riêng lẻ) vừa tính kinh tế qui lớn (nghĩa chỉ thể phân tích được
mức độ kinh tế quốc gia, thậm chí kinh tế toàn cầu).
5
người dịch. Nguyên bản: groupe. Thường được dịch “tập đoàn” nhưng theo tôi dịch “nhóm” sát nghĩa
hơn. Từ này hay dùng để chỉ những công ti lớn, thường bao gồm nhiều công ti con cùng hoạt động dưới các hình
thức pháp đa dạng.
6
Theo những người tham gia đình công, mức lương của ông này một triệu euro một năm (nghĩa tương
đương với lương của gần hai trăm thợ mỏ). Không may không thông tin nào về ch đề này trên trang web
của công ti.
7
người dịch. Nguyên bản: répartie de fa¸con rigoureusement égalitaire.
22l5.com 51
được lĩnh phần lợi nhuận bằng nhau b sung cho phần tiên lương bản, thì (hầu như) chẳng
ai quan tâm đến vấn đề phân chia lợi nhuận (hay tiền lương) nữa. Sự phân chia vốn-làm việc
y nên nhiều xung đột như thế, đầu tiên và trên hết bởi sự tập trung cực độ của sự sở hữu
vốn. Thật vậy, tại tất cả các nước, bất bình đẳng tài sản - và thu nhập do những tài sản này
mang lại - luôn luôn mạnh hơn rất nhiều bất bình đẳng tiền lương và thu nhập từ làm việc. Ta
sẽ phân tích hiện tượng này và những nguyên nhân của trong phần thứ ba. Trước tiên ta hãy
b qua một bên bất bình đẳng thu nhập từ làm việc và từ vốn
8
, và ta sẽ tập trung sự chú ý vào
vấn đề phân chia thu nhập quốc gia giữa vốn và làm việc trên phạm vi toàn cầu.
Để tôi nói cho mọi việc ràng: ch định của tôi đây không phải tra khảo phán xét vụ
việc người lao động phản đối giới ch sở hữu, đúng hơn để giúp mọi người định chuẩn suy
nghĩ và hình dung được sự việc. Bất bình đẳng vốn-thu nhập nhiên cực thô bạo v mặt
ý niệm. đánh vỗ mặt vào những quan niệm được chấp nhận rộng rãi nhất về thế nào công
bằng và không công bằng, và không mấy ngạc nhiên khi đôi lúc dẫn đến cả thượng cẳng chân
hạ cẳng tay. Đối với tất cả những người chỉ sở hữu sức lao động của mình - những người thường
sống trong những điều kiện sài, thậm c rất sài trong trường hợp người nông dân thế kỉ
18 hoặc người thợ mỏ Marikana -, họ rất khó chấp nhận việc những người giữ vốn - đôi khi do
hưởng thừa kế hoặc ít nhất một phần từ đó - thể không làm việc vẫn giành phần nhiều
của cải được làm ra. Thêm nữa, phần dành cho người giữ vốn thể đạt đến những mức độ đáng
kể, thường trong khoảng một phần đến một nửa tổng giá trị sản phẩm, đôi khi quá một nửa
trong những lĩnh vực đòi hỏi sự tập trung vốn cao như lĩnh vực khai thác mỏ, thậm chí còn
hơn thế khi tình trạng độc quyền địa phương cho phép giới ch nghiễm nhiên chiếm phần to.
Nhưng đồng thời, ai cũng hiểu rằng nếu toàn b sản phẩm được dành để trả lương và không
chút dành cho lợi nhuận, chắc hẳn sẽ rất khó để thu hút thêm vốn cho phép chi trả những
khoản đầu mới, ít nhất trong cách thức tổ chức kinh tế hiện nay (tất nhiên ta thể tưởng
tượng ra những cách thức tổ chức khác). Chưa tính đến việc xóa b mọi khoản tiền lãi cho những
người đã chọn để dành tiết kiệm và mang đi đầu
9
nhiều hơn người khác không hẳn hoàn
toàn thích đáng (giả định đó một nguồn gốc quan trọng trong bất bình đẳng tài sản - vấn
đề này cũng sẽ được xem xét sau). nên nhớ một phần trong cái gọi “thu nhập từ vốn”
8
người dịch. tức loại bất bình đẳng “cá thể”.
9
người dịch. Theo cách hiểu ch quan, đây Piketty muốn nói đến việc tiết kiệm tiền rồi đem tiền tiết kiệm
đi đầu (gửi ngân hàng, góp vốn, v.v) để sinh lợi thông qua tiền lãi trên vốn.
52 Chương 1. Thu nhập và sản phẩm
đôi khi tương ứng với tiền thù lao của lao động “tự thân”, và phải được coi ngang hàng với các
dạng lao động khác. V lại luận kinh điển vừa nêu chính cũng phải được nghiên cứu thật
càng. Xét tất cả các yếu tố trên, thì đâu mức độ “đúng” cho sự phân chia vốn-làm việc? Ta
chắc chắn là, sự vận hành “tự do” của một nền kinh tế thị trường và quyền sở hữu nhân
sẽ dẫn đến mức độ phân chia tối ưu y mọi lúc mọi nơi, như thần dược không? Trong một
hội tưởng, ta sẽ phải tổ chức sự phân chia vốn-làm việc như thế nào, và ta phải làm để
hướng đến một hội như vy?
Phân chia vốn-làm việc trong giai đoạn dài: không thật sự
ổn định
Để khiêm nhường tiến lên trong mạch duy này, và cố gắng ít nhất định chuẩn những điều
mục của cuộc tranh luận vẻ không lối ra này, ta nên bắt đầu bằng việc thiết lập những
sự kiện thật càng chính xác và tỉ mỉ càng tốt. Chúng ta biết đích xác điều về tiến trình của
sự phân chia vốn-làm việc từ thế kỉ 18? Từ lâu giả thuyết phổ biến nhất trong giới kinh tế học,
được tuyên truyền hơi quá vội vàng trong những cuốn sách giáo khoa, giả thuyết v một sự
ổn định vững vàng trong giai đoạn dài của sự phân chia thu nhập quốc gia giữa làm việc và vốn,
nhìn chung xung quanh mức hai phần ba/một phần ba
10
. Nhờ vào khoảng lùi lịch sử và số liệu
ta có, ta sẽ chứng minh rằng thực tế ràng phức tạp hơn nhiều.
Một mặt, cùng với lịch sử chính trị và lịch sử kinh tế hỗn loạn trong thế kỉ 20 vừa rồi, ta đã
chứng kiến những sự đảo lộn với biên độ lớn của sự phân chia vốn-làm việc. Những sự biến đổi
tại thế kỉ 19, đã được nhắc tới trong phần vào đề (phần thu nhập từ vốn tăng lên trong nửa đầu
thế kỉ, sau đó giảm nhẹ và giữ ổn định), vẻ vẫn rất ôn hòa nếu đem so sánh với thế kỉ 20.
Tóm lại: những biến cố của “giai đoạn đầu thế kỉ 20” (1914-1945) - ta thể liệt kê: Chiến tranh
thế giới thứ nhất, cách mạng Bolshevik năm 1917, cuộc khủng hoảng năm 1929, Chiến tranh thế
giới thứ hai - và những chính sách mới đến từ những sự xáo trộn này: chính sách giám sát kinh
tế, chính sách thuế và chính sách kiểm soát vốn công khai - đã dẫn tới việc vốn nhân xuống
mức thấp lịch sử trong những năm 1950-1960. Cuộc gây dựng lại tài sản sau đó đã được bắt đầu
10
khoảng 65%-70% dành cho lương và những thu nhập từ làm việc khác, và 30%-35% dành cho lợi nhuận, tiền
thuê tài sản và những thu nhập từ vốn khác.
22l5.com 53
lại rất nhanh chóng, rồi tăng tốc nhờ vào cuộc Cách mạng phe bảo thủ tại Anh năm 1979-1980,
sự sụp đổ của khối Soviet năm 1989-1990, sự toàn cầu hóa tài chính và nới lỏng giám sát kinh
tế những năm 1990-2000 - những sự kiện đánh dấu một bước ngoặt chính trị theo chiều ngược
lại với bước ngoặt trước
11
. Những sự kiện này cho phép vốn nhân vào đầu những năm 2010
đạt được sự hưng thịnh chưa từng thấy kể từ năm 1913, bất chấp cuộc khủng hoảng từ năm
2007-2008. Không phải tất cả mọi thứ trong trong tiến trình này và trong quá trình gây dựng lại
tài sản đều tiêu cực. Đó phần nào những quá trình tự nhiên và đáng mong đợi. Nhưng chúng
cũng đã thay đổi một cách rất biệt triển vọng của phân chia vốn-làm việc thời đầu thế kỉ 21
y, cũng như những tiến trình khả cho những thập kỉ sắp tới.
Mặt khác, nếu một tầm nhìn bao quát trong giai đoạn dài, rộng hơn giai đoạn xảy ra
đảo lộn kép tại thế kỉ 20 k trên, thì sẽ thấy rằng giả thuyết về sự ổn định toàn phần của sự
phân chia vốn-làm việc sẽ vướng phải việc bản chất đồng vốn chính đã thay đổi triệt để (từ
vốn ruộng đất tại thế kỉ 18 đến vốn bất động sản, công nghiệp và tài chính thế kỉ 21), và nhất
không thuận với ý kiến cho rằng sự lên ngôi của “vốn con người” đặc trưng của tăng trưởng
hiện đại - giả thuyết rất phổ biến trong giới kinh tế học - nét đầu tiên dự đoán rằng sẽ xu
hướng tăng đều đặn của phần thu nhập từ làm việc trong tổng thu nhập quốc gia. Ta sẽ thấy
trong phần sau rằng một xu hướng như vy thể xảy ra trong giai đoạn rất dài, những chiếm
tỉ lệ khá khiêm tốn: phần thu nhập từ vốn (không phải vốn con người) thời đầu thế kỉ 21 này
chỉ ít hơn chút đỉnh so với đầu thế kỉ 19. Những mức vốn hóa tài sản rất cao hiện nay tại các
nước giàu vẻ trước hết thế giới đang quay lại một chế độ kinh tế với tăng trưởng dân số
và sản lượng thấp, đi kèm với một chế độ chính trị nói một cách khách quan rất ưu đãi cho
đồng vốn nhân.
Để hiểu những chuyển biến này, cách tiếp cận hiệu quả nhất sẽ phân tích tiến trình của
tỉ số vốn/thu nhập (nghĩa tỉ số giữa tổng dự trữ vốn và dòng thu nhập hàng năm), chứ không
chỉ dừng lại sự phân chia vốn-làm việc (nghĩa sự phân chia giữa dòng thu nhập từ vốn và
từ làm việc). Chủ đề phân chia vốn-làm việc đã được nghiên cứu một cách lớp lang trong quá
khứ, nhưng phần lớn các nghiên cứu đó vẫn thiếu vắng các số liệu tương thích.
Trước khi trình bày chi tiết các kết quả thu được, ta hãy tiến hành nghiên cứu tuần tự từng
11
người dịch. Ý nói bước ngoặt chính trị lần này theo chiều hướng nới lỏng giám sát, ngược lại với chiều hướng
tăng cường kiểm soát trong giai đoạn đầu thế kỉ 20.
54 Chương 1. Thu nhập và sản phẩm
bước một. Phần thứ nhất của cuốn sách này mục đích giới thiệu những khái niệm bản.
Trong phần tiếp theo của chương 1, ta sẽ bắt đầu bằng việc trình bày các khái niệm v sản phẩm
trong nước và thu nhập quốc gia, về vốn và làm việc, và về tỉ số vốn/thu nhập. Rồi ta sẽ xem
xét những chuyển biến của sự phân b sản lượng và thu nhập kể từ Cách mạng công nghiệp trên
phạm vi toàn cầu. Trong chương 2, ta sẽ phân tích tiến trình của tỉ lệ tăng trưởng nói chung
trong lịch sử: sẽ đóng vai trò trung tâm cho những phân tích tiếp theo.
Sau khi nắm chắc các tiền đề này, ta sẽ nghiên cứu trong phần thứ hai sự vận động của tỉ số
vốn/thu nhập và của sự phân chia vốn-làm việc, đây cũng vy ta s tiến hành tuần tự từng bước
một. Trong chương 3, ta sẽ xem xét những chuyển biến của thành phần của vốn và tỉ số vốn/thu
nhập kể từ thế kỉ 18, bắt đầu bằng trường hợp Liên hiệp Anh và Pháp, hai nước ta biết nhất
trên một giai đoạn rất dài. Tiếp đến chương 4 giới thiệu trường hợp Đức và nhất trường hợp
Châu - trường hợp này b sung hữu ích c nhìn về các nước Châu Âu. Cuối cùng, chương
5 và 6 mở rộng những phân tích này ra toàn b các nước giàu, trong chừng mực thể ra toàn
b thế giới, từ đó rút ra những bài học v sự vận động của tỉ số vốn/thu nhập và sự phân chia
vốn-làm việc trên phạm vi toàn cầu thời đầu thế kỉ 21 này.
Khái niệm v thu nhập quốc gia
Ta sẽ bắt đầu bằng việc trình bày khái niệm về “thu nhập quốc gia”, khái niệm sẽ được dùng
thường xuyên trong sách. Theo định nghĩa, thu nhập quốc gia đo lường toàn b thu nhập
được của tất cả những dân trong một nước trong vòng một năm, bất k hình thức pháp
của những thu nhập này.
Thu nhập quốc gia liên quan chặt chẽ tới khái niệm “sản phẩm thô trong nước” (SPTTN),
rất hay được dùng trong các cuộc tranh luận công chúng, tuy nhiên chúng hai sự khác nhau
quan trọng. SPTTN đo lường toàn b hàng hóa và dịch vụ được làm ra trong vòng một năm
trong lãnh thổ một nước. Để tính thu nhập quốc gia, trước tiên ta phải lấy SPTTN trừ đi phần
xuống giá của vốn giúp sản xuất những sản phẩm đó, nghĩa sự hao mòn nhà xưởng, thiết bị,
y c, xe cộ, máy tính, v.v, được dùng trong vòng một năm. Khối lượng đáng k này (hiện
nay đạt tới khoảng 10% SPTTN tại phần lớn các nước) không tạo nên thu nhập cho ai cả: trước
khi phát lương cho người làm việc, phát lợi nhuận trên vốn góp cho người giữ vốn góp hoặc thực
22l5.com 55
hiện những khoản đầu mới, đầu tiên ta phải thay thế hoặc sửa chữa phần vốn bị hao mòn.
Nếu ta không làm việc đó, sẽ tương ứng với một sự mất mát tài sản, tức tương ứng với
một thu nhập âm cho ch sở hữu. Sau khi trừ đi phần xuống giá của vốn trong SPTTN, ta thu
được “sản phẩm nét trong nước”, ta sẽ gọi đơn giản “sản phẩm trong nước”, thường bằng
90% SPTTN .
Sau đó ta phải thêm phần thu nhập nét nhận được từ ngoài nước (hoặc trừ đi thu nhập nét
chuyển ra ngoài nước, tùy tình hình từng nước). dụ, một nước toàn b doanh nghiệp và
vốn được sở hữu bởi ch nước ngoài thể sản phẩm trong nước rất cao nhưng thu nhập
quốc gia thấp hơn hẳn, sau khi trừ đi phần lợi nhuận và tiền thuê chảy ra nước ngoài. Ngược
lại, một nước sở hữu phần lớn vốn của những nước khác thể thu nhập quốc gia cao hơn
sản phẩm trong nước rất nhiều.
Ta sẽ trở lại xem xét những dụ của hai tình trạng đó, rút ra từ lịch sử của ch nghĩa vốn
và của thế giới hiện nay. Giờ y nhấn mạnh rằng loại bất bình đẳng quốc tế này thể sinh ra
những căng thẳng chính trị to lớn. Không nước nào vô làm việc cho nước khác, và đều đặn
chuyển cho nước đó phần lớn sản phẩm của mình dưới dạng lợi nhuận trên vốn góp hoặc tiền
th tài sản. Để một hệ thống như vy trụ vững được đến một mức nào đó, thường phải đi
kèm với những quan hệ áp đảo chính trị, như trường hợp Châu Âu sở hữu phần lớn phần còn
lại của thế giới thời thuộc địa. Một trong những vấn đề trung tâm trong nghiên cứu của chúng
ta tìm hiểu xem trong những chừng mực và những điều kiện nào loại tình trạng này khả
năng tái diễn trong thế kỉ 21, thể dưới những sắp đặt
12
địa khác, dụ Châu Âu sẽ đóng
vai trò người bị sở hữu chứ không phải người sở hữu (đây nỗi lo ngại rất phổ biến hiện nay
tại Lục địa Già - lẽ hơi quá mức: ta sẽ xem xét sau).
Lúc này ta y tạm ghi nhớ rằng phần lớn các nước, nước giàu hay nước mới nổi, hiện
tình trạng cân bằng hơn rất nhiều những ta đôi khi tưởng tượng. Tại Pháp cũng như Liên
Hiệp Anh, tại Trung Quốc cũng như Brazil, tại Nhật cũng như Ý, thu nhập quốc gia không khác
mấy so với sản phẩm trong nước - chỉ chênh lệch 1% hoặc 2%. Nói cách khác, tại tất cả các
nước, dòng tiền chuyển vào và chuyển ra gần như cân bằng nhau (tại các nước giàu, thu nhập
nhận từ ngoài nước nói chung cao hơn thu nhập chuyển ra chút xíu). Xấp xỉ nói, dân tại
những nước khác nhau, thông qua đầu bất động sản và tài chính, sở hữu lượng của cải trong
12
người dịch. Nguyên bản: configuration.
56 Chương 1. Thu nhập và sản phẩm
phần còn lại của thế giới không mấy hơn kém lượng của cải phần còn lại của thế giới sở hữu tại
nước họ. Ngược lại với lời huyền hoặc đáng sợ nào đó, nước Pháp không bị sở hữu bởi những quĩ
hưu trí California hoặc Ngân hàng Trung Quốc, không hơn không kém việc nước không phải
tài sản của những nhà đầu Nhật Bản hoặc Đức. Nỗi lo ngại về những tình trạng như vy
mạnh đến mức sự hoang tưởng thường lấn át thực tại. Ngày nay, thực tế bất bình đẳng
vốn tính trong nước mạnh hơn tính quốc tế rất nhiều: ch yếu đối nghịch những người
giàu và những người nghèo trong nội b một nước hơn giữa các nước với nhau. Nhưng không
phải lúc nào cũng như thế trong lịch sử, và hoàn toàn chính đáng khi ta tự hỏi dưới những
điều kiện nào tình trạng này thể tiến triển trong thế kỉ 21, cộng thêm vào đó việc một số
nước - Nhật Bản, Đức, những nước dầu mỏ, và - mức độ thấp hơn - Trung Quốc, gần đây đã
tích lũy được những khoản tiền không nhỏ (mặc vẫn thấp hơn hẳn kỉ lục thời thuộc địa)
phần còn lại của thế giới đang nợ họ. Như ta sẽ thấy trong phần sau, sự tăng tiến rất nhanh của
sở hữu chéo giữa các nước (mỗi nước phần lớn bị sở hữu bởi các nước khác) thể làm tăng,
một cách chính đáng, cảm giác bị tước mất sở hữu, ngay cả khi các phần sở hữu-bị sở hữu bừ
trừ nhau gần hết.
Tóm lại, đối với mỗi nước, thu nhập quốc gia thể cao hơn hoặc thấp hơn sản phẩm trong
nước, tùy thuộc vào thu nhập nét nhận từ ngoài nước dương hay âm:
thu nhập quốc gia = sản phẩm trong nước + thu nhập nét nhận từ ngoài nước
13
Trên phạm vi toàn thế giới, do các thu nhập nhận từ và chuyển ra ngoài nước trừ lẫn
nhau, nên mặc nhiên thu nhập bằng với sản phẩm:
thu nhập toàn cầu = sản phẩm toàn cầu
14
Đẳng thức giữa dòng sản phẩm và dòng thu nhập hàng năm này một điều hiển nhiên v
mặt khái niệm và kế toán, nhưng còn phản ánh một thực tế rất quan trọng. Trong một năm
nhất định, ta không thể phân phối nhiều thu nhập hơn những của cải mới được làm ra (trừ khi
đi vay nợ nước khác, điều không thể qui hành tinh). Đảo lại, tất cả sản phẩm phải được
phân phối dưới dạng thu nhập - dưới cách y hay cách khác: hoặc dưới dạng tiền lương, tiền
13
Thu nhập quốc gia còn được gọi “sản phẩm nét quốc gia” (đối lập với “sản phẩm thô quốc gia”, viết tắt
SPTQG, bao gồm phần vốn bị xuống giá). Ta dùng cụm từ “thu nhập quốc gia”, đơn giản và trực quan hơn. Thu
nhập nét đến từ ngoài nước được định nghĩa hiệu số giữa thu nhập nhận từ ngoài nước và thu nhập chuyển ra
ngoài nước. Hai dòng tiền chéo nhau này ch yếu thu nhập từ vốn, nhưng cũng cả thu nhập từ làm việc và
tiền chuyển theo một hướng (ví dụ những người di chuyển tiền về quê gốc của họ). Xem phụ lục thuật.
14
Thu nhập toàn cầu được định nghĩa một cách tự nhiên tổng số của thu nhập quốc gia của tất cả các nước,
và sản phẩm toàn cầu tổng số của sản phẩm trong nước của tất cả các nước.
22l5.com 57
ph cấp, tiền bồi dưỡng, tiền thưởng, v.v trả cho người làm công hoặc người đã góp sức lao động
vào quá trình sản xuất (ta gọi đó thu nhập từ làm việc); hoặc dưới dạng lợi nhuận, lợi nhuận
trên vốn góp, tiền lãi, tiền thuê tài sản, tiền phí v.v, vào tay những người đã dùng vốn của họ
trong quá trình sản xuất (ta gọi đó thu nhập từ vốn).
Vốn gì?
y tóm tắt lại những điểm trên. mức độ tài khoản của một doanh nghiệp, của toàn thể một
nước hoặc toàn cầu, sản phẩm và thu nhập đến từ sản phẩm thể được phân tách thành tổng
số của thu nhập từ vốn và thu nhập từ làm việc:
thu nhập quốc gia = thu nhập từ vốn + thu nhập từ làm việc
Nhưng vốn gì? Giới hạn và hình dạng của chính xác gì, và thành phần của chuyển
biến thế nào theo thời gian? Câu hỏi này, trung tâm đối với nghiên cứu của chúng ta, sẽ được
xem xét chi tiết hơn trong những chương sau. Tuy vy cần phải nói ngay những điểm sau.
Đầu tiên, xuyên suốt cuốn sách này, khi ta nói về “vốn” không chú thích thêm, ta luôn
loại trừ cái những nhà kinh tế học thường gọi “vốn con người” - cụm từ không sát lắm
theo cảm nhận của chúng tôi - nghĩa sức lao động, tay nghề, học vấn, các năng lực nhân.
Trong khuôn khổ cuốn sách này, vốn được định nghĩa như toàn b những tài sản không phải
con người, thể được sở hữu và trao đổi trên một thị trường nào đó. Vốn ch yếu bao gồm
toàn b vốn bất động sản (tòa nhà, nhà riêng) được dùng để và vốn tài chính và nghề nghiệp
(nhà xưởng, thiết bị, máy c, chứng chỉ, v.v) được dùng bởi các doanh nghiệp và các quan
hành chính.
nhiều do để loại trừ vốn con người trong định nghĩa về vốn của chúng ta. do hiển
nhiên nhất vốn con người không thể do người khác sở hữu, cũng không thể trao đổi được trên
thị trường, ít nhất trên sở thường xuyên liên tục. Đó điều khác biệt ch yếu so với những
dạng vốn khác. nhiên ta thể th dịch vụ làm việc, trong khuôn khổ một hợp đồng lao
động. Nhưng, trong tất cả các hệ thống pháp luật hiện đại, điều đó chỉ thể được thực hiện
trên sở tạm thời và giới hạn về thời gian và cách sử dụng. Tất nhiên không tính những hội
chiếm hữu lệ, nơi ta được phép sở hữu đầy đủ và hoàn toàn vốn con người của một người
khác, thậm chí cả con cháu (nếu có) của những người này nữa. Trong những hội như vậy, ta
58 Chương 1. Thu nhập và sản phẩm
thể bán những người lệ trên thị trường và truyền lại theo thừa kế, thế rất bình thường
khi người ta cộng giá trị của những lệ này với những thành tố khác khi ta tính tổng tài sản.
Ta sẽ gặp lại điểm này khi nghiên cứu v thành phần của vốn nhân tại miền Nam nước
trước năm 1865. Nhưng ngoài trường hợp rất đặc biệt y ra (được xem đã không còn tồn tại
nữa), không nghĩa lắm khi người ta cộng giá trị của vốn phi con người với vốn con người. Hai
dạng của cải này trong suốt lịch sử đã đóng những vai trò nền tảng và b sung cho nhau trong
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, và tình hình vẫn sẽ như vy trong thế kỉ 21. Nhưng,
để hiểu đúng quá trình này và cấu trúc của bất bình đẳng sinh ra từ đó, việc quan trọng ta
phải phân biệt và xem xét một cách riêng biệt hai dạng vốn trên.
Vốn phi con người, ta sẽ gọi đơn giản “vốn” trong khuôn khổ cuốn sách này, tập hợp
tất cả các dạng của cải được xem như thể sở hữu được bởi các thể (hoặc bởi nhóm các
thể) và thể được chuyển nhượng hoặc trao đổi trên thị trường trên cở sở thường xuyên liên
tục. Trong thực tế, vốn thể được sở hữu hoặc bởi các nhân (ta gọi đó vốn nhân), hoặc
bởi Nhà nước hay các quan hành chính công cộng (ta gọi đó vốn công cộng). Cũng tồn tại
những dạng tài sản tập thể trung gian giữa hai dạng trên, được sở hữu bởi những đại diện pháp
theo đuổi những mục đích cụ thể (quĩ phi lợi nhuận, Nhà thờ, v.v) ta sẽ trở lại nghiên cứu
sau. Lẽ tất nhiên ranh giới giữa những các nhân thể sở hữu được và không thể sở
hữu được tiến triển rất nhanh theo thời gian và không gian, như được cực tả qua trường hợp
hội chiếm hữu lệ. Tình hình cũng giống như vy đối với không khí, biển, núi, công trình lịch
sử, kiến thức; thể đến lúc nào đó một số nhóm lợi ích nảy lòng tham muốn sở hữu chúng, sẵn
sàng đặt những mục tiêu tăng cường hiệu quả lên trên lợi ích riêng của họ. Nhưng chắc đó đã
lợi ích chung. Vốn không phải một quan niệm bất biến: phản ánh trạng thái phát triển
và những mối tương quan chi phối một hội nhất định.
Vốn và tài sản
Để việc thuyết trình được đơn giản, ta sẽ sử dụng các từ “vốn” và “tài sản” thay phiên nhau như
những từ hoàn toàn cùng nghĩa. Theo một số định nghĩa, từ “vốn” được dành cho dạng tài sản
được tích lũy bởi con người (nhà xưởng, máy c, thiết bị, v.v), không bao gồm đất đai và tài
nguyên thiên nhiên - những thứ loài người được thừa kế không cần phải tích lũy. Như vậy
22l5.com 59
đất đai sẽ được hiểu một thành phần của tài sản, chứ không phải của vốn. Vấn đề của định
nghĩa đó không phải lúc nào cũng dễ dàng tách được riêng giá trị nhà xưởng và giá trị khu đất
y dựng. Nghiêm trọng hơn, ta sẽ thấy rằng rất khó tách được riêng giá trị đất “trống” (như
được con người khám phá ra cách đây nhiều thế kỉ hoặc nhiều thiên niên kỉ) và giá trị của rất
nhiều các cải thiện sau đó - hệ thống mương máng, tưới tiêu, b không tái tạo cho vụ sau, v.v. -
được con người thực hiện trên đất nông nghiệp. Những nguồn tài nguyên thiên nhiên khác - dầu
mỏ, khí đốt, “đất hiếm”, v.v.- cũng gặp cùng vấn đề: rất phức tạp để phân biệt giá trị thuần túy
của chúng với những khoản đầu cho phép phát hiện ra những mỏ khoáng sản tại đó và tiến
hành khai thác chúng. vy, ta sẽ bao gồm tất cả các dạng của cải trong khái niệm “vốn”, tất
nhiên không phải thế ta ngừng quan tâm cẩn thận đến nguồn gốc của tài sản, đặc biệt
ranh giới giữa những đến từ tích lũy và những đến từ cải tạo tự nhiên.
những định nghĩa khác, theo đó từ “vốn” được dành cho những thành phần của tài sản
được dùng trực tiếp trong quá trình sản xuất. dụ, vàng phải được coi một thành phần của
tài sản chứ không phải một thành phần của vốn, bởi vàng không dùng được vào việc khác
ngoài làm vật lưu giữ giá trị. Đây cũng vy, sự phân loại kể trên vẻ không thực tiễn cũng
không tiện dùng: vàng đôi khi được dùng như nhân tố sản xuất, trong ngành trang sức cũng
như trong ngành điện tử hoặc công nghệ nano. Tất cả các dạng vốn luôn đóng vai kép, một mặt
như một dạng lưu trữ giá trị và mặt khác như một nhân tố sản xuất. thế theo chúng tôi, đơn
giản không nên áp đặt một sự phân biệt cứng ngắc giữa quan niệm v tài sản và quan niệm
v vốn.
Cũng như vy, chúng tôi thấy không thích đáng lắm khi loại b bất động sản nhà khỏi định
nghĩa của “vốn”, dưới do rằng những bất động sản này “không sản xuất”, khác với “vốn sản
xuất” được sử dụng bởi các doanh nghiệp và các quan hành chính: nhà xưởng với mục đích
nghề nghiệp, văn phòng, máy c, thiết bị, v.v. Trong thực tế, tất cả các dạng tài sản đều
ích và đều sản xuất ra của cải. Chúng tương ứng với hai chức năng kinh tế lớn của vốn: nếu ta
tạm thời b qua vai trò lưu giữ giá trị, vốn này ích lợi một mặt dùng để (nghĩa sản xuất
ra “dịch vụ trú”, giá trị của được đo bằng giá trị thuê tài sản đó để ở), mặt khác như
một nhân tố sản xuất đối với các doanh nghiệp và các quan hành chính sản xuất ra những
hàng hóa và dịch vụ khác (các tổ chức này cần nhà xưởng, văn phòng, máy móc, thiết bị, v.v, để
sản xuất ra những sản phẩm này). Ta sẽ thấy trong phần sau của sách rằng mỗi chức năng lớn
60 Chương 1. Thu nhập và sản phẩm
y chiếm xấp xỉ một nửa tổng dự trữ vốn của những nước phát triển thời đầu thế kỉ 21 này.
y tóm tắt lại những điểm trên. Ta định nghĩa “tài sản quốc gia” hoặc “vốn quốc gia” như
toàn b giá trị, ước lượng bằng giá thị trường, của tất cả những dân và chính phủ
nước đó sở hữu tại một thời điểm nhất định, và khả năng trao đổi được trên thị trường
15
.
Đó tổng số của những tài sản không phải tài chính (nhà ở, đất đai, quĩ trao đổi hàng hóa
16
,
nhà xưởng, máy c, thiết bị, chứng chỉ và những tài sản nghề nghiệp được sở hữu trực tiếp
khác) và những tài sản tài chính (tài khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm, giấy ghi nợ, phiếu góp vốn
và những phần sở hữu khác trong doanh nghiệp, đầu tài chính dưới mọi bản chất, hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ, trừ đi các khoản nợ tài chính
17
).
Nếu ta giới hạn trong phạm vi tài sản và nợ sở hữu bởi các nhân, ta sẽ thu được tài sản
nhân hoặc vốn nhân. Nếu ta xét tài sản và các khoản nợ sở hữu bởi Nhà nước và những
quan hành chính công cộng (các Hợp tác địa phương, Bảo hiểm hội, v.v), ta sẽ thu được
tài sản công cộng hoặc vốn công cộng. Theo định nghĩa, tài sản quốc gia tổng số của hai số
hạng này:
tài sản quốc gia = tài sản cá nhân + tài sản công cộng
Hiện nay, tài sản công cộng chiếm phần cực ít ỏi tại phần lớn các nước phát triển (thậm
c âm, khi những khoản nợ công cộng vượt quá sở hữu công cộng). Như ta sẽ thấy trong phần
sau của sách, tài sản nhân c