60 Chương 1. Thu nhập và sản phẩm
này chiếm xấp xỉ một nửa tổng dự trữ vốn của những nước phát triển thời đầu thế kỉ 21 này.
Hãy tóm tắt lại những điểm trên. Ta định nghĩa “tài sản quốc gia” hoặc “vốn quốc gia” như
là toàn bộ giá trị, ước lượng bằng giá thị trường, của tất cả những gì mà cư dân và chính phủ
nước đó sở hữu tại một thời điểm nhất định, và có khả năng trao đổi được trên thị trường
15
.
Đó là tổng số của những tài sản không phải tài chính (nhà ở, đất đai, quĩ trao đổi hàng hóa
16
,
nhà xưởng, máy móc, thiết bị, chứng chỉ và những tài sản nghề nghiệp được sở hữu trực tiếp
khác) và những tài sản tài chính (tài khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm, giấy ghi nợ, phiếu góp vốn
và những phần sở hữu khác trong doanh nghiệp, đầu tư tài chính dưới mọi bản chất, hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ, trừ đi các khoản nợ tài chính
17
).
Nếu ta giới hạn trong phạm vi tài sản và nợ sở hữu bởi các cá nhân, ta sẽ thu được tài sản
cá nhân hoặc vốn cá nhân. Nếu ta xét tài sản và các khoản nợ sở hữu bởi Nhà nước và những cơ
quan hành chính công cộng (các Hợp tác xã địa phương, Bảo hiểm xã hội, v.v), ta sẽ thu được
tài sản công cộng hoặc vốn công cộng. Theo định nghĩa, tài sản quốc gia là tổng số của hai số
hạng này:
tài sản quốc gia = tài sản cá nhân + tài sản công cộng
Hiện nay, tài sản công cộng chiếm phần cực kì ít ỏi tại phần lớn các nước phát triển (thậm
chí âm, khi những khoản nợ công cộng vượt quá sở hữu công cộng). Như ta sẽ thấy trong phần
sau của sách, tài sản cá nhân chiếm hầu như toàn bộ tài sản quốc gia tại gần như tất cả các
nước. Nhưng tình hình không phải lúc nào cũng như vậy trong lịch sử, vì thế ta vẫn cần phân
biệt rõ hai khái niệm này.
Nói rõ là quan niệm về vốn dùng trong sách dĩ nhiên loại ra vốn con người (loại vốn này
không thể trao đổi được trên thị trường, ít nhất là trong các xã hội không chiếm hữu nô lệ),
nhưng không giới hạn trong phạm vi vốn “vật thể” (đất đai, nhà xưởng, thiết bị, và những tài
sản có dạng tồn tại vật chất khác). Ta cũng bao gồm vốn “phi vật thể”, ví dụ dưới dạng chứng
15
Trong tiếng Anh, ta dùng từ “national wealth” (người dịch. Tạm dịch: “của cải quốc gia’’) hoặc “national
capital” (người dịch. Tạm dịch: “vốn quốc gia”). Ta sẽ tránh dùng cụm từ “của cải quốc gia” tiếng Pháp, bởi trong
tiếng Pháp từ “của cải” thường được dùng một cách mơ hồ (mơ hồ hơn cả từ “wealth” trong tiếng Anh), đôi khi
để chỉ dòng thu nhập (của cải sản xuất ra trong năm), đôi khi để chỉ dự trữ (của cải được hiểu như là toàn bộ tài
sản được sở hữu trong một thời điểm nhất định). Vào thế kỉ 18 và 19, những tác giả người Pháp thường dùng từ
“gia tài quốc gia” (người dịch. Nguyên bản: “fortune nationale”), và những tác giả người Anh dùng từ “national
estate” (xin nhắc lại với bạn đọc rằng từ “estate” trong tiếng Anh chỉ toàn bộ tài sản, dù là bất động sản (“real
estate”) hay là những tài sản khác (“personal estate)”. Tất cả những từ này luôn chỉ cùng một quan niệm.
16
người dịch. Nguyên bản: fond de commerce.
17
Ta sẽ chủ yếu dùng các định nghĩa và phân loại cho khái niệm tài sản và các khoản nợ theo chuẩn kế toán
quốc tế hiện hành. Một vài khác biệt nhỏ sẽ được nói rõ và thảo luận trong phụ lục kĩ thuật.